Bài văn khuyên chăm học của vua Lê Thánh Tông Thuần Hoàng Đế

5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Bài này rất rất hay, đúng là văn phong của Vua. Có đoạn đầu giới thiệu nhưng em cắt đi nên phần chú thích sẽ bắt đầu từ số 9


Bài văn khuyên chăm học
của vua Lê Thánh Tông Thuần Hoàng Đế


Từng nghe:

Người quân tử được gọi là “Thành Đức”, quý ở chỗ có đủ cả “thể” cả “dụng”(9);
Bậc Nho giả cầu “cái học vị kỉ”(10), thì cần phải có thủy có chung.

Nếu sớm tối không cần cù,
Thì công phu bị gián đoạn.

Kìa:

Bậc đại thánh như vua Hạ Vũ(11), còn tiếc nuối từng tấc quang âm;
Bậc đại hiền như ngài Tăng Sâm(12), vẫn mỗi ngày xét mình ba lượt.

Đổng Tử đời Hán(13), buông rèm mà khích lệ kẻ sĩ;
Xương Lê đời Đường(14), kiên trì mà đi tới thành công.

Kẻ kia là người, ta cũng là người, mà họ làm được như thế;
Xưa vẫn lý ấy, nay vẫn lý ấy, cốt có chí thì làm nên.

Các người:

Sinh ra ở trong vòng trời đất,
Cùng bẩm thụ khí âm dương.

Mỗi một sự vật, tuy trời phú có thuần tạp khác nhau;
Nhưng đã là người, ai cũng có chí noi theo bậc hiền bậc thánh.

Trước hết, phải tẩy rửa cho trong sạch, ứng đối, tiến lui cho phải phép;
Thứ đến, học các môn lễ nhạc, xạ ngự, thư số khác nhau(15).

Ngồi ngay ngắn, đứng trang nghiêm, học rồi thường xuyên luyện tập(16),
Tâm ngay chính, ý chân thành(17), đạo đức ngày càng thêm mới.

Đào sâu kỹ những điều đã học;
Hăng say tìm những điều chưa thông.

Thể loại “kinh” là thứ chở đạo, phải dốc sức mà giảng cầu;
Thể loại “sử” là sách ghi việc, phải dụng tâm mà suy cứu.

Từ đó, khảo cứu phép tắc của thánh hiền;
Từ đó, nắm vững quy luật của sự lý.

Lời đẹp chẳng gì bằng Kinh Thi, Kinh Thư(18) Thi, Thư cần phải có;
Hành đạo chẳng gì hơn Kinh Lễ, Kinh Nhạc(19), Lễ, Nhạc chẳng thể không.

Lặn ngụp nơi Bát quái, Cửu trù(20);
Ra vào chốn Bách gia chư tử(21).

Tìm bậc đại hiền làm thầy, tìm bậc thứ hiền kết bạn, gần gũi thầy bạn đúng phương châm;
Ra thờ bậc trưởng, vào thờ bậc anh, kính trưởng mến anh hết đạo.

Chớ chạy theo dòng tư dục mà làm trái sự lý;
Những nên coi việc thiện làm thầy.

Khí chất do thói quen mà đổi thay; Hãy răn giới một chữ kiêu mạn;
Đạo lý cao nhất, cốt ở chỗ giữ gìn quan hệ xung quanh.

Rèn công phu thực tiễn chân thành;
Chớ mắc lỗi săn lùng danh tiếng.

Có định có tĩnh, có lự có đắc(22), thành quả mới cao;
Như thiết như tha như trác như ma(23), cầu tiến bộ mãi.

Bản thân đã có sở đắc;
Lại mong mở rộng cho người.

Người tài dạy người bất tài, người đúng dạy người chưa đúng.
Giúp đỡ thêm đông đảo;

Thành tựu chẳng riêng mình, lập thân chẳng mình ta,
Đức vọng thêm bạn hữu.

Nhân càng thục, nghĩa càng tinh;
Công càng cao, nghiệp càng lớn.

Từ đó mà ra sức áp dụng điều sở học;
Từ đó mà noi theo cổ nhân học làm quan(24).

Giành chức quan cao nhà Hán xưa, khác nào cúi nhặt hạt cải(25);
Giật lấy khoa bảng nhà Tống nọ, chỉ như nhổ đứt sợi râu.

Người tranh xem bảng hổ đề tên;
Đời ngưỡng vọng đường mây nhẹ bước(26).

Cùng khách đai vàng bội ngọc, tiếp gót liền vai;
Một đoàn đeo nỏ cầm roi, tiền hô hậu ủng.

Tấm lòng đăng hỏa ngày xưa thật chẳng phụ;
Nguyện ước công danh thuở nọ được đền bồi.

Nhờ văn chương mà địa vị rõ ràng;
Nhờ đạo đức mà tục dân giáo hoá.

Giúp dân giúp chủ, lợi ích thấm khắp đương thời;
Bản thân cha mẹ vẻ vang, sự nghiệp lưu truyền hậu thế.

Tất thảy đều nhờ cần cù là trên hết,
Vậy nên bổng lộc sẵn ở trong(27).

Thế mà chẳng học, chẳng suy;
Chính là tự mình vứt bỏ.

Tối tăm lời dạy ở mô điển(28), ú ớ chẳng hay;
Ham mê say đắm chốn gió trăng, mịt mờ chẳng tỉnh.

Bóng quang âm nơi khe cửa thấm thoát chẳng tỏ;
Ngọn đèn nơi thành nam le lói chẳng chăm.

Ham mê các trò vui, cái tâm kê khuyển(29) dễ buông thả;
Học mới được mấy tý, cái chí hồng hộc(30) đã thay rồi.

Như Tể Dư, gỗ mục chẳng thể dùng(31),
Như Từ Tử, dòng nước chẳng biết mạch(32).

Núi cao chín nhẫn, thiếu một sọt đất chẳng thành(33);
Giếng chẳng có mạch nguồn, giữa đường đành vứt bỏ.

Cái tài cỏn con chẳng dùng được;
Công việc hèn mọn phải cam làm.

Rong ruổi làm quân dưới cờ, ngực sinh rận rệp;
Bôn tẩu làm lính trước ngựa, lưng đầy bọ giòi.

Vất vả thân đầy tớ dốt ngu;
Khúm núm hèn mọn thật xấu hổ.

Cẩu thả cày cấy, cẩu thả thu hoạch, lỗi ấy vì đâu?
Khốn khổ cái thân, khốn khổ cái tâm, hối hận sao kịp !

Há chỉ làm lụy tới thê tử;
Mà còn phụ ơn cả mẹ cha.

Ngoảnh nhìn người áo gấm vẻ vang;
Thật đáng xấu hổ và sỉ nhục !

Kìa:

Làm người tốt và không tốt, phân biệt chỉ chỗ đó mà thôi;
Học chăm hay không chăm, còn gì khác như thế nữa!

Ta có vài lời như vậy;
Các ngươi hãy nhớ lấy!

Dịch giả Mai Xuân Hải


-----------------------------------------
CHÚ THÍCH

(9) Thể dụng: vốn là thuật ngữ của Tống Nho. ở đây “thể” có nghĩa là thể chất, có thực học, thực tài; “dụng” là tác dụng, là sự phát huy tác dụng của cái thể chất, cái thực học đó.

(10) Vị kỷ: vì mình. “Vị kỷ chi học”, là cái học cốt cầu tiến bộ ở nơi bản thân mình, có xuất xứ từ sách Luận ngữ, thiên Hiến vấn thứ 14: “Cổ chi học giả vị kỷ, kim chi học giả vị nhân” (người học ngày xưa cầu sở đắc ở nơi bản thân mình, người học ngày nay cầu để người khác biết mình).

(11) Hạ Vũ: tức vua Đại Vũ nhà Hạ, còn gọi là Hậu Vũ, là một ông vua hiền nổi tiếng trong lịch sử cổ đại Trung Quốc, khai sáng ra nhà Hạ. Cha là Cổn trị thủy không có công, bị giết. Ông nối sự nghiệp, 8 năm ở ngoài, 3 lần đi qua cửa mà không vào, tranh thủ thời gian để hoàn thành sự nghiệp trị thủy.

(12) Tăng sâm: một trong 72 học trò giỏi của Khổng Tử, nổi tiếng về giữ đạo hiếu. Ông là tác giả các sách Hiếu kinh, Đại học v.v... Tống Nho cho rằng chỉ có một mình ông là chân truyền được đạo thống của Khổng Tử. Câu “Mỗi ngày xét mình ba lượt” (Ngô nhật tam tỉnh ngô thân) có xuất xứ từ sách Luận ngữ, thiên Học nhi thứ nhất.

(13) Đổng Tử: Tức Đổng Trọng Thư, là một nhà triết học nổi tiếng thời Hán, giữ chức Bác sĩ thời Hán Cảnh Đế. Ông buông rèm dạy học, ba năm liền mắt không nhìn ra ngoài vườn, được mọi người suy tôn là thầy. Tác phẩm có Xuân thu phồn lộ v.v...

(14) Xương - Lê: tức Hàn Dũ, là nhà triết học, nhà văn nổi tiếng thời Đường. Ông thuở nhỏ mồ côi cha, nhờ khắc khổ kiên trì học tập mà thành đạt, đỗ Tiến sĩ đời vua Đường Đức Tông. Ông là người bác thông kinh sử, bách gia, văn chương có phong cách riêng, là một trong “Đường, Tống bát đại gia” (8 nhà văn lớn đời Đường, Tống).

(15) Lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số: tức “lục nghệ” (6 nghề) trong sách Chu Lễ . Đó là: Lễ, nhạc, xạ (bắn cung), ngự (đánh xe ngựa), thư (viết chữ), và số (tính toán).

(16) Học rồi thường xuyên luyện tập: lấy ý câu nói của Khổng Tử: “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ” (Học mà được thường xuyên luyện tập, thì không vui hay sao?) trong sách Luận ngữ, thiên Học nhi thứ nhất.

(17) Tâm chính, ý thành: giữ cho tâm được ngay chính, cho ý được chân thành. Đó là những phương pháp tu dưỡng thân tâm, có xuất xứ từ sách Đại học.

(18) (19) Thi, Thư, Lễ, Nhạc: tên bốn kinh: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, trong Ngũ kinh (thêm Kinh Dịch) của đạo Nho.

(20) Bát quái, Cửu trù: “Bát quái” là 8 quẻ, gồm: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài trong Kinh Dịch . “Cửu trù” tức chín trù, gồm: 1. Ngũ hành, 2. Kính dụng ngũ sự, 3. Nông dụng bát chính, 4. Hiệp dụng ngũ kỷ, 5. Kiến dụng hoàng cực, 6. Ngải dụng tam đức, 7. Minh dụng kê nghi, 8. Niệm dụng thứ trưng, 9. Hưởng dụng ngũ phúc, uy dụng lục cực, có xuất xứ từ thiên Hồng phạm, Kinh Thư. Bát quái, Cửu trù ở đây chỉ Kinh Dịch, Kinh Thư.

(21) Bách gia chư tử: thuật ngữ chỉ 10 môn phái triết học tiêu biểu thời cổ đại Trung Quốc, gồm: Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia, Danh gia, Âm dương gia, Tung hoành gia, Tạp gia (Lã Thị Xuân Thu, Hoài Nam Tử ...), Nông gia, Tiểu thuyết gia.

(22) Có định có tĩnh, có lự có đắc: chỉ sự tập trung tư tưởng cao độ (định tĩnh), đào sâu suy nghĩ (lự) thì học tập mới có kết quả (đắc), có xuất xứ từ sách Đại học.

(23) Như thiết như tha, như trác như ma: như cắt như cứa, như mài như giũa. Chỉ người học có nhu cầu bức xúc, thôi thúc học tập (như thiết như tha) và hàng ngày cần cù chăm chỉ (như trác như ma), có xuất xứ từ sách Đại học và sách Luận ngữ, thiên Học nhi thứ nhất.

(24) Câu này lấy ý từ câu “học muốn hay thì ra làm quan” (học nhi ưu tắc sĩ), có xuất xứ từ sách Luận ngữ, chương Tử Trương thứ 19. Người xưa cho rằng, làm quan là cách tốt nhất để có cơ hội thi thố, ứng dụng những điều sở học của mình, góp phần đóng góp cho xã hội. Bên cạnh đó giúp mình được hưởng bổng lộc, vinh hoa, là thành quả chính đáng gặt hái được nhờ học tập mà có.

(25) Giành chức quan cao: dịch thoát chữ “thanh tử” tức là hai màu xanh, tía, mầu áo của bậc khanh, đại phu đời Hán, Cúi nhặt hạt cải: Hạ Hầu Thắng khi dạy học thường bảo học trò rằng: “Kẻ sĩ chỉ lo việc không sáng tỏ kinh thuật. Một khi kinh thuật sáng tỏ rồi, thì việc giành lấy chức quan cao, chỉ dễ như cúi nhặt hạt cải vậy” (Hán Thư, Hạ Hầu Thắng truyện).

(26) Đường mây nhẹ bước: dịch câu “thanh vân đắc lộ”, chỉ những người may mắn, học giỏi đỗ đạt, có địa vị cao trên con đường hoạn lộ.

(27) Bổng lộc sẵn ở trong: lấy ý từ câu nói của Khổng Tử “Học dã, lộc tại kỳ trung hĩ”, trong sách Luận ngữ, thiên Vệ Linh Công thứ 15.

(28) Lời dạy ở mô điển: “mô điển” là những thể văn răn giới về chính sự ở các đời Hạ, Thương, Chu chép trong Kinh Thư.

(29) Cái tâm kê khuyển: chỉ những ham muốn vật dục trong con người, nếu không biết chế ngự thì rất dễ bị buông thả, sa ngã.

(30) Chí hồng hộc: hồng hộc là hai loài chim bay cao, bay xa, chí hồng hộc là chỉ những người có chí, có hoài bão, có lý tưởng lớn lao.

(31) Tể Dư, gỗ mục chẳng thể dùng: Tể Dư là học trò của Khổng Tử, có tài nói năng, theo học khoa ngôn ngữ, nhưng kém ý chí, hay ngủ ngày, nên bị Khổng Tử chê là khác nào cây gỗ mục, không thể dùng để đẽo gọt, chạm trổ được. Chuyện này, có xuất xứ từ sách Luận ngữ, thiên Công Dã Tràng thứ 5.

(32) Từ Tử: chưa rõ.

(33) Câu này ý khuyên người học phải tự cường, cố gắng không biết ngừng nghỉ, tích thiểu thành đa, nếu giữa đường dừng lại, thì công phu trước vứt hết, như quả núi cao, thiếu một sọt đất cũng chẳng thành, có xuất xứ là sách Luận ngữ thiên Tử Hãn thứ 9: “Thí như vi sơn, vị thành nhất quĩ, chỉ, ngô chỉ dã” (Ví như đắp một ngọn núi, còn thiếu một sọt đất nên chưa thành, dừng lại, là ta tự dừng vậy)./.

Nguồn: Tạp chí Hán Nôm số 2 / 1992
 
Top