Camellia
New Member
Câu chuyện này bắt đầu trên một trang web(1).
Rất nhiều người đọc mục “Tự truyện”, nhưng không một câu hỏi nào của người đọc làm tác giả bài viết, một cô gái trẻ, quan tâm cả. Chuyện cô kể về một người mẹ, người đàn bà dũng cảm, kiên nhẫn đi suốt cuộc chiến tranh và hy sinh tất cả cho con bà ăn học nên người.
Người viết vào mục cảm tưởng là một nhà văn: “Thật là một người mẹ rất đáng kính trọng, không tầm thường!” Ông xúc động ghi lại cảm tưởng và xin người viết cốt chuyện để viết một truyện ngắn.
Giọng kể của cô gái rất vô tư và mộc mạc, nhân vật đứa con của người mẹ - người kể - do ghi tên cũng không có dấu nên ông tưởng lầm là con trai. Cô viết Trần Phượng thành Tran Phuong, vì vậy trong lá thư ông dùng đại từ anh để gọi tác giả.
Cô gái trả lời thư người bạn không biết mặt, đồng ý cho ông lấy chuyện cô đã kể làm tư liệu. Trong hai lá thư tiếp đó, hỏi thêm những chi tiết về người mẹ, nhà văn vẫn đinh ninh người viết cho mình là một cậu con trai. Thư nào ông cũng cẩn thận đề dòng cuối: “Tôi thực lòng cám ơn cậu đã trả lời thư tôi.”
Tình bạn của họ bắt đầu như vậy.
Truyện ngắn hoàn thành rất nhanh và trước khi gửi đăng, ông tri ân người cung cấp tài liệu cho ông bằng cách gửi cho cô gái đọc trước khi đưa in.
Cô gái đọc xong truyện, gửi thư vội cho nhà văn, cải chính rằng, nhân vật trong truyện phải là một cô gái!
Tất cả tình tiết truyện đã được nhà văn cấu tứ rất nhịp nhàng, vì thế việc thay đổi giới tính của nhân vật tạo nên sự phức tạp không cần thiết. Thế là giữa họ có một cuộc cãi vã chừng hai, ba lá thư. Cuối cùng thì cô gái đành chấp nhận sự giải thích có tình có lý của nhà văn.
Vài tuần sau, nhà văn lĩnh nhuận bút, ông muốn gửi cô báo biếu và khao cô một chầu cà-phê. Thực khó lòng từ chối một lần hẹn êm đềm như vậy. Cô gái nhận lời.
Từ khi biết Phượng là một cô gái, nhà văn vẫn nghĩ về cô với hình ảnh một cô gái bình thường, khuôn mặt luôn có cặp kính cận như cô tả. Đối với ông, qua sự tan vỡ ở mối tình đầu thì hình thức là một khía cạnh quan trọng nhưng không phải là tất cả để nói lên bản chất của cái đẹp, dù hình thức có thể giữ vai trò hệ trọng để gợi cảm, nhưng chỉ là khởi đầu. Điều đấy thật đặc trưng cho tư duy của một người từng trải lại đam mê, nắm được mẹo luật sáng tác. Ông đi về phía nơi có quán cà-phê thanh lịch: Quán Phố.
Trời xuân lây phây mưa bụi. Ông dựng cổ áo măng tô dạ xám lên che ấm lồng ngực. Cái mũ nồi Basque hơi sụp xuống. Chọn bàn trống ngay lối vào, lơ đãng nhìn ra đường phố. Quán Phố hôm nay không nhiều khách lắm. Nhưng cũng tới bốn năm cặp bạn tới ngồi trước khi ông tới. Vài người đi lẻ, dường như không chờ đợi ai. Họ tới đây, có lẽ chỉ thưởng thức li càfê dưới trời lạnh. Ông chả vội vàng gì, bình nhiên châm một điếu thuốc và lấy tập bản thảo truyện ngắn của một người bạn ra tranh thủ đọc.
Cô gái vừa ở một hội nghị khoa học bàn về quản lý y tế ra. Hôm nay cô là diễn giả. Báo cáo của cô thực súc tích và gây bất ngờ cho nhiều người. Người ta tặng cô những bó hoa thật đẹp. Cô gái ra khỏi hội trường của Viện, nhớ tới cuộc hẹn với nhà văn quen trên thư điện tử. Chỉ còn ba phút! Cô vội vã ra chỗ để xe và thực sự lúng túng với số hoa bồng bênh, bất tiện trên cái làn trước tay lái.
Nhà văn xem đồng hồ. Đã đến giờ hẹn mà cô gái không tới. Ông quan sát toàn tiệm. Không có cô gái nào đi một mình, có hình dáng như ông tưởng tượng cả. Mấy cô gái trẻ có hình thức bình thường thì đi với bạn trai và không mang kính cận. Có hai cô gái rất xinh bên kia bàn đang ríu rít nói về ca sĩ X. Theo ông, X rất sến. Như vậy, không phải là Phượng. Phượng hiểu biết, bình dị và nhỏ nhắn. Phượng đi một mình. Cô có kính cận. Đấy là vài đặc tính để nhận biết, do ông suy tưởng qua mấy lá thư của cô.
Cô gái thực ra đã tới gần điểm hẹn. Nhưng cô đã thấm mệt và bệnh tim bẩm sinh của cô làm cô bất chợt cảm thấy choáng váng. Phượng dừng xe lại bên đường vài phút và vô tình làm rớt cặp kính xuống đất khi cô xếp lại bó hoa sắp rơi vì gió. Một mắt kính vỡ tan trên hè đường. Cô gái trẻ sững sờ, bởi vì không có nó, cô nhìn mọi vật đều huyền ảo.
Phượng dắt xe phải tới 15 phút mới tới quán Phố. Như vậy người đợi chờ cô quá 30 phút. Ông trả tiền và đứng dậy. “Có thể do lý do gì đấy, cô gái bận, lỡ hẹn!” Ông bước ra khỏi quán cà-phê Phố, nghĩ ngay đến ý kiến góp ý với truyện ngắn của bạn, không hề để ý tới Phượng và đống hoa trên tay đã đến, lướt qua sát người ông để bước vào tiệm.
Phượng đã tất tưởi gửi xe. Cô bước nhanh và đảo mắt. Không có người nào lớn tuổi ra dáng đợi chờ. Cô không biết rằng người vừa đi sát mình là nhà văn Nguyễn Thụ. Ông già ấy đâu rồi? Phượng thoáng nghĩ về hai truyện ngắn của nhà văn vừa được đọc (Có thể chính vì thế ở những lá thư đầu cô luôn gọi ông là bác). Cô quan sát một vòng nữa bằng đôi mắt hơi nâu, trong sáng nhưng thiếu kính. Có, cô có ngoái nhìn lướt qua ông, nhưng lại nghĩ “người ấy không thể có phong độ nhanh nhẹn như vậy”.
Gió xuân thốc mưa bụi làm ướt tái đi khuôn mặt có làn da rất đỗi mịn màng chẳng khi nào cần đánh phấn của cô. Quán đã vắng dần. Phượng trả tiền tách trà, lấy xe, đi rất chậm, sát bên hè trái đường Quán Phố.
Nhà văn về tới nhà. Ông chậm rãi nấu một bát mì và ăn ngay cạnh bàn máy tính. Viết đến mười một giờ đêm, ông chợt nhớ tới chiều hẹn vừa lỡ. Tại sao cô bé không đến? Ông bật Email(2). Lá thư xanh biếc, với dòng chữ quen thuộc hiện ra, from: Phuong.
Thư ngắn. Cô hỏi, sao ông không tới? Cô than phiền về chuyện vỡ kính; về trái tim đột ngột trở chứng của cô. Cô bảo, hôm nay cô có nhiều hoa mà không gặp ông để chia cho ông một bó. Thế đấy! Chỉ thế đấy mà ông chợt nhói lên. Có phải chăng, ông nhớ tới con gái ông ở tận Sài Gòn. Nó cũng bị tim như thế. Vì nó mà ông và vợ cũ của ông tuy tan vỡ vẫn còn duyên nợ với nhau bao năm mới chia tay. Ông hiểu, quên ngay việc lỡ hẹn để trách cứ cô gái. Ông viết, kể lại việc mình chờ đợi thế nào và an ủi cô vài lời. “Hẹn một dịp nào đó sẽ gặp nhau vậy!” Cuối thư ông hỏi địa chỉ cô, ngỏ ý muốn gửi cô tờ báo có in truyện, cái truyện ngắn dựa vào cốt chuyện về người mẹ của cô. Xong, ông nhấn nút. Thư bay đi.
Chỉ sau vài phút thì ông nhận thư trả lời. Thực đáng tiếc, chiều mai cô sẽ bay đi úc, bắt đầu một khoá học lấy bằng Master theo kế hoạch tài trợ của nước bạn. “Xin bác hãy gửi báo về địa chỉ dưới đây của cháu, mẹ cháu sẽ chuyển sau cho cháu vậy!” Cô gái viết. Nhà văn lắc đầu. Mình thực là vô duyên! Ông nghĩ và không hề biết là Phượng cũng đang nghĩ về ông khi cô sắp xếp mấy cuốn sách vào va li: “Mình nhìn thấy ông ta rồi. Cũng chưa già lắm. Cái dáng lướt sát mình khi ấy. Giá mà khi đó còn cặp kính nhỉ!” Phượng tủm tỉm cười một mình.
Nửa tháng sau, trên hộp thư điện tử của Thụ xuất hiện lá thư đầu tiên của Phượng. Thư nhẹ nhàng kể về cuộc sống tại úc, kèm theo là bức ảnh, một cô gái dáng thanh tú quay lưng lại như khoe bộ tóc dày đen buông xoã ngang vai. Cô đang ngắm dòng sông nhỏ và cánh rừng vàng thu phía trước; lại cả vài bức ảnh màu chụp những con vật lạ, ngộ nghĩnh mà theo Thụ, cô gái cắt cúp khá đẹp. Ông tự hỏi, sao tóc như vậy lại cắt ngắn đi nhỉ? ồ, thời đại mới mà! Thời đại mà việc lấy nét, tốc độ, cửa mở đã có máy tự động giải quyết! Nhưng cô biết chụp ảnh lắm đấy. Ông viết, khen cô cắt cúp, bố cục các mảng tối sáng rất đẹp. Cô gái lập tức trả lời rằng, cô có học chụp ảnh và máy của cô là máy cơ, không phải máy tự động. Chỉ có vậy mà ông vẫn cặm cụi trả lời những lá thư chẳng có gì quan trọng như thế của Phượng. Không hiểu do lý do nào đó, Phượng gọi ông bằng chú thay “bác”. Từ ấy, thư thường có dòng đầu: Chú Thụ ơi!
Nguyễn Thụ thực ra không có nhiều thời gian. Để kiếm sống, ông phải lăn lưng làm việc tại một nhà xuất bản. Ngoài ra công việc của cá nhân ông là sáng tác. Ông thuộc số ít văn sĩ không thích quan hệ rộng. Sự viết của ông thực sự là đam mê, dầu mệt nhọc. Thích thú như thế, nhưng ông không coi trọng nó hơn các công việc khác, như việc vi đọc bản in thử cho các cây bút trẻ chẳng hạn. Ông thường nghĩ, viết văn cũng như kiếm sống, để mình sống; không có việc nào trên đời cao quý hơn việc nào. Cao quý là do tấm lòng với công việc. Việc viết của ông cũng chẳng mong cái danh như người khác. Ông viết cho Phượng: “Tôi viết văn để trả nợ và giải toả, tâm sự với bè bạn.” Có thể thế thật, bởi vì ông luôn cảm thấy cô đơn, khổ tâm, nhất là khi ông không viết được gì.
----------------
(còn nữa)
Rất nhiều người đọc mục “Tự truyện”, nhưng không một câu hỏi nào của người đọc làm tác giả bài viết, một cô gái trẻ, quan tâm cả. Chuyện cô kể về một người mẹ, người đàn bà dũng cảm, kiên nhẫn đi suốt cuộc chiến tranh và hy sinh tất cả cho con bà ăn học nên người.
Người viết vào mục cảm tưởng là một nhà văn: “Thật là một người mẹ rất đáng kính trọng, không tầm thường!” Ông xúc động ghi lại cảm tưởng và xin người viết cốt chuyện để viết một truyện ngắn.
Giọng kể của cô gái rất vô tư và mộc mạc, nhân vật đứa con của người mẹ - người kể - do ghi tên cũng không có dấu nên ông tưởng lầm là con trai. Cô viết Trần Phượng thành Tran Phuong, vì vậy trong lá thư ông dùng đại từ anh để gọi tác giả.
Cô gái trả lời thư người bạn không biết mặt, đồng ý cho ông lấy chuyện cô đã kể làm tư liệu. Trong hai lá thư tiếp đó, hỏi thêm những chi tiết về người mẹ, nhà văn vẫn đinh ninh người viết cho mình là một cậu con trai. Thư nào ông cũng cẩn thận đề dòng cuối: “Tôi thực lòng cám ơn cậu đã trả lời thư tôi.”
Tình bạn của họ bắt đầu như vậy.
Truyện ngắn hoàn thành rất nhanh và trước khi gửi đăng, ông tri ân người cung cấp tài liệu cho ông bằng cách gửi cho cô gái đọc trước khi đưa in.
Cô gái đọc xong truyện, gửi thư vội cho nhà văn, cải chính rằng, nhân vật trong truyện phải là một cô gái!
Tất cả tình tiết truyện đã được nhà văn cấu tứ rất nhịp nhàng, vì thế việc thay đổi giới tính của nhân vật tạo nên sự phức tạp không cần thiết. Thế là giữa họ có một cuộc cãi vã chừng hai, ba lá thư. Cuối cùng thì cô gái đành chấp nhận sự giải thích có tình có lý của nhà văn.
Vài tuần sau, nhà văn lĩnh nhuận bút, ông muốn gửi cô báo biếu và khao cô một chầu cà-phê. Thực khó lòng từ chối một lần hẹn êm đềm như vậy. Cô gái nhận lời.
Từ khi biết Phượng là một cô gái, nhà văn vẫn nghĩ về cô với hình ảnh một cô gái bình thường, khuôn mặt luôn có cặp kính cận như cô tả. Đối với ông, qua sự tan vỡ ở mối tình đầu thì hình thức là một khía cạnh quan trọng nhưng không phải là tất cả để nói lên bản chất của cái đẹp, dù hình thức có thể giữ vai trò hệ trọng để gợi cảm, nhưng chỉ là khởi đầu. Điều đấy thật đặc trưng cho tư duy của một người từng trải lại đam mê, nắm được mẹo luật sáng tác. Ông đi về phía nơi có quán cà-phê thanh lịch: Quán Phố.
Trời xuân lây phây mưa bụi. Ông dựng cổ áo măng tô dạ xám lên che ấm lồng ngực. Cái mũ nồi Basque hơi sụp xuống. Chọn bàn trống ngay lối vào, lơ đãng nhìn ra đường phố. Quán Phố hôm nay không nhiều khách lắm. Nhưng cũng tới bốn năm cặp bạn tới ngồi trước khi ông tới. Vài người đi lẻ, dường như không chờ đợi ai. Họ tới đây, có lẽ chỉ thưởng thức li càfê dưới trời lạnh. Ông chả vội vàng gì, bình nhiên châm một điếu thuốc và lấy tập bản thảo truyện ngắn của một người bạn ra tranh thủ đọc.
Cô gái vừa ở một hội nghị khoa học bàn về quản lý y tế ra. Hôm nay cô là diễn giả. Báo cáo của cô thực súc tích và gây bất ngờ cho nhiều người. Người ta tặng cô những bó hoa thật đẹp. Cô gái ra khỏi hội trường của Viện, nhớ tới cuộc hẹn với nhà văn quen trên thư điện tử. Chỉ còn ba phút! Cô vội vã ra chỗ để xe và thực sự lúng túng với số hoa bồng bênh, bất tiện trên cái làn trước tay lái.
Nhà văn xem đồng hồ. Đã đến giờ hẹn mà cô gái không tới. Ông quan sát toàn tiệm. Không có cô gái nào đi một mình, có hình dáng như ông tưởng tượng cả. Mấy cô gái trẻ có hình thức bình thường thì đi với bạn trai và không mang kính cận. Có hai cô gái rất xinh bên kia bàn đang ríu rít nói về ca sĩ X. Theo ông, X rất sến. Như vậy, không phải là Phượng. Phượng hiểu biết, bình dị và nhỏ nhắn. Phượng đi một mình. Cô có kính cận. Đấy là vài đặc tính để nhận biết, do ông suy tưởng qua mấy lá thư của cô.
Cô gái thực ra đã tới gần điểm hẹn. Nhưng cô đã thấm mệt và bệnh tim bẩm sinh của cô làm cô bất chợt cảm thấy choáng váng. Phượng dừng xe lại bên đường vài phút và vô tình làm rớt cặp kính xuống đất khi cô xếp lại bó hoa sắp rơi vì gió. Một mắt kính vỡ tan trên hè đường. Cô gái trẻ sững sờ, bởi vì không có nó, cô nhìn mọi vật đều huyền ảo.
Phượng dắt xe phải tới 15 phút mới tới quán Phố. Như vậy người đợi chờ cô quá 30 phút. Ông trả tiền và đứng dậy. “Có thể do lý do gì đấy, cô gái bận, lỡ hẹn!” Ông bước ra khỏi quán cà-phê Phố, nghĩ ngay đến ý kiến góp ý với truyện ngắn của bạn, không hề để ý tới Phượng và đống hoa trên tay đã đến, lướt qua sát người ông để bước vào tiệm.
Phượng đã tất tưởi gửi xe. Cô bước nhanh và đảo mắt. Không có người nào lớn tuổi ra dáng đợi chờ. Cô không biết rằng người vừa đi sát mình là nhà văn Nguyễn Thụ. Ông già ấy đâu rồi? Phượng thoáng nghĩ về hai truyện ngắn của nhà văn vừa được đọc (Có thể chính vì thế ở những lá thư đầu cô luôn gọi ông là bác). Cô quan sát một vòng nữa bằng đôi mắt hơi nâu, trong sáng nhưng thiếu kính. Có, cô có ngoái nhìn lướt qua ông, nhưng lại nghĩ “người ấy không thể có phong độ nhanh nhẹn như vậy”.
Gió xuân thốc mưa bụi làm ướt tái đi khuôn mặt có làn da rất đỗi mịn màng chẳng khi nào cần đánh phấn của cô. Quán đã vắng dần. Phượng trả tiền tách trà, lấy xe, đi rất chậm, sát bên hè trái đường Quán Phố.
Nhà văn về tới nhà. Ông chậm rãi nấu một bát mì và ăn ngay cạnh bàn máy tính. Viết đến mười một giờ đêm, ông chợt nhớ tới chiều hẹn vừa lỡ. Tại sao cô bé không đến? Ông bật Email(2). Lá thư xanh biếc, với dòng chữ quen thuộc hiện ra, from: Phuong.
Thư ngắn. Cô hỏi, sao ông không tới? Cô than phiền về chuyện vỡ kính; về trái tim đột ngột trở chứng của cô. Cô bảo, hôm nay cô có nhiều hoa mà không gặp ông để chia cho ông một bó. Thế đấy! Chỉ thế đấy mà ông chợt nhói lên. Có phải chăng, ông nhớ tới con gái ông ở tận Sài Gòn. Nó cũng bị tim như thế. Vì nó mà ông và vợ cũ của ông tuy tan vỡ vẫn còn duyên nợ với nhau bao năm mới chia tay. Ông hiểu, quên ngay việc lỡ hẹn để trách cứ cô gái. Ông viết, kể lại việc mình chờ đợi thế nào và an ủi cô vài lời. “Hẹn một dịp nào đó sẽ gặp nhau vậy!” Cuối thư ông hỏi địa chỉ cô, ngỏ ý muốn gửi cô tờ báo có in truyện, cái truyện ngắn dựa vào cốt chuyện về người mẹ của cô. Xong, ông nhấn nút. Thư bay đi.
Chỉ sau vài phút thì ông nhận thư trả lời. Thực đáng tiếc, chiều mai cô sẽ bay đi úc, bắt đầu một khoá học lấy bằng Master theo kế hoạch tài trợ của nước bạn. “Xin bác hãy gửi báo về địa chỉ dưới đây của cháu, mẹ cháu sẽ chuyển sau cho cháu vậy!” Cô gái viết. Nhà văn lắc đầu. Mình thực là vô duyên! Ông nghĩ và không hề biết là Phượng cũng đang nghĩ về ông khi cô sắp xếp mấy cuốn sách vào va li: “Mình nhìn thấy ông ta rồi. Cũng chưa già lắm. Cái dáng lướt sát mình khi ấy. Giá mà khi đó còn cặp kính nhỉ!” Phượng tủm tỉm cười một mình.
Nửa tháng sau, trên hộp thư điện tử của Thụ xuất hiện lá thư đầu tiên của Phượng. Thư nhẹ nhàng kể về cuộc sống tại úc, kèm theo là bức ảnh, một cô gái dáng thanh tú quay lưng lại như khoe bộ tóc dày đen buông xoã ngang vai. Cô đang ngắm dòng sông nhỏ và cánh rừng vàng thu phía trước; lại cả vài bức ảnh màu chụp những con vật lạ, ngộ nghĩnh mà theo Thụ, cô gái cắt cúp khá đẹp. Ông tự hỏi, sao tóc như vậy lại cắt ngắn đi nhỉ? ồ, thời đại mới mà! Thời đại mà việc lấy nét, tốc độ, cửa mở đã có máy tự động giải quyết! Nhưng cô biết chụp ảnh lắm đấy. Ông viết, khen cô cắt cúp, bố cục các mảng tối sáng rất đẹp. Cô gái lập tức trả lời rằng, cô có học chụp ảnh và máy của cô là máy cơ, không phải máy tự động. Chỉ có vậy mà ông vẫn cặm cụi trả lời những lá thư chẳng có gì quan trọng như thế của Phượng. Không hiểu do lý do nào đó, Phượng gọi ông bằng chú thay “bác”. Từ ấy, thư thường có dòng đầu: Chú Thụ ơi!
Nguyễn Thụ thực ra không có nhiều thời gian. Để kiếm sống, ông phải lăn lưng làm việc tại một nhà xuất bản. Ngoài ra công việc của cá nhân ông là sáng tác. Ông thuộc số ít văn sĩ không thích quan hệ rộng. Sự viết của ông thực sự là đam mê, dầu mệt nhọc. Thích thú như thế, nhưng ông không coi trọng nó hơn các công việc khác, như việc vi đọc bản in thử cho các cây bút trẻ chẳng hạn. Ông thường nghĩ, viết văn cũng như kiếm sống, để mình sống; không có việc nào trên đời cao quý hơn việc nào. Cao quý là do tấm lòng với công việc. Việc viết của ông cũng chẳng mong cái danh như người khác. Ông viết cho Phượng: “Tôi viết văn để trả nợ và giải toả, tâm sự với bè bạn.” Có thể thế thật, bởi vì ông luôn cảm thấy cô đơn, khổ tâm, nhất là khi ông không viết được gì.
----------------
(còn nữa)