Kazan (Ca-dăng) - James Oliver Curwood

5,640
9
38

metyruoi

Active Member
Kazan (Ca-dăng)
James Oliver Curwood

Hoàng Lâm dịch
Nhà xuất bản Kim Đồng – 1986






I. QUYẾN RŨ


Giờ này, trong một căn nhà đầy đủ tiện nghi, Kazan đang nằm im lặng, không cựa quậy, đối mắt lim dim, cái mõm xám gác lên hai hàng móng chân trước.

Nom nó im lìm như một tảng đá; trên mình, không một bắp thịt nào chuyển động, không một sợi lông nào nhúc nhích, mi mắt cũng không hề nhấp nháy.

Thế mà với vẻ ngoài bất động đó, từng giọt máu dã thú trong cái thân hình tuyệt đẹp hiện đang run lên một cảm xúc mãnh liệt mà từ trước đến nay nó không hề biết. Từng thớ nhỏ trên những bắp thịt rắn chắc của nó đều căng thẳng như một sợi dây đàn.

Trong dòng máu Kazan, một phần tư là sói, ba phần tư là chó Huski (1). Trải qua bốn, năm tuổi đời, nó toàn sống trên những vùng heo hút bao la trắng xoá của miền Bắc địa.

Ở đấy, nó đã biết thế nào là sự giày vò của đói khát, thế nào là giá rét. Nó đã từng nghe gió bốn phương gào rít trên vùng Ba-ren(2) trắng xoá và hoang vắng, nó đã từng dán bụng dưới luồng bão táp vặn bẻ cây ngàn răng rắc ghê người, cùng tiếng nguồn, tiếng thác đổ ầm ầm như sấm. Cổ nó, lông nó còn mang biết bao vết sẹo của những trận chiến đấu và những cơn gió tuyết luôn luôn như cào như cắn, làm mắt nó đỏ ngầu.

Người ta gọi nó là Kazan, con chó rừng. Trong số anh em cùng giống, nó thuộc vào loại to nhất và khi được thắng vào xe trượt tuyết, thì sức dẻo dai bất khuất của nó chẳng kém gì sức những người cầm cương dắt nó qua trăm nghìn nguy hiểm của một vùng đất trời băng tuyết.

Kazan chưa hề biết sợ là gì, cũng không bao giờ nghĩ đến chuyện chạy trốn. Ngay cả cái hôm lênh láng máu trong khu rừng bách, phải chiến đấu với một con mèo rừng to, xám mà cuối cùng nó đã cắn chết.

Ở đây, trong ngôi nhà này, không có cái gì làm cho nó phải hoảng. Thế nhưng nó vẫn sợ. Nó chỉ biết là nó đã bị chuyển đến một bầu trời hoàn toàn khác hẳn bầu trời xưa nay nó vẫn sống, nó phải run rẩy và cảm thấy sắp có nguy hiểm gì đây.

Đây là lần đầu tiên nó tiếp xúc với cuộc sống văn minh. Và nó đang nằm trong căn phòng kỳ lạ, lo âu chờ đợi chủ về.

Gian buồng ngổn ngang những đồ vật đặc biệt đáng lo ngại. Nhất là trên vách, trong mấy cái khung màu vàng, có những bộ mặt người to tướng, không cử động cũng không nói không rằng, cứ chằm chằm nhìn nó. Xưa nay có ai nhìn nó như thế đâu. Nó còn nhớ như in, trước đây có một người chủ cũ cũng đã nằm sóng soài trên tuyết, bất dộng, lạnh lùng như những bộ mặt kia. Sau khi hít ngửi ông ta hồi lâu, nó đã ngồi xuống gửi vào không trung bài ca tử thần. Nhưng những con người gắn trên tường kia, đang vây quanh nó kia, lại có vẻ nhìn của người sống. Vậy mà họ không động đậy, chẳng khác gì người chết.

Chợt Kazan khẽ vểnh tai. Có tiếng chân, rồi tiếng người nói nhỏ nhẹ. Một trong hai giọng nói là của chủ nó. Còn giọng kia … thoạt nghe nó thấy rợn cả người.

Đấy là một giọng đàn bà, một giọng cười đùa vui vẻ. Nó nhớ tới một giọng nói tương tự, vừa dịu dàng vừa chứa đựng cả niềm hạnh phúc, và, trong thời thơ ấu xa xưa của nó, giọng nói đó cũng đã từng vang vọng bên tai nó như vậy.

Khi người chủ và thiếu phụ bước vào, nó ngẩng đầu lên nhìn chằm chằm bằng đôi mắt đỏ quạch.

Qua ánh lửa lò, nó nhận thấy người đàn bà đẹp có mái tóc nâu vàng, bộ mặt tươi hồng như nho thu và đôi mắt sáng ngời tựa hai đoá hoa xanh. Nhác trông thấy Kazan, nàng khẽ reo lên và lao ngay đến phía nó.
- Đứng lại em! - người chủ hét lên - Phải cẩn thận! Con vật này nguy hiểm lắm đấy…

Nhưng thiếu phụ đã quỳ xuống, xinh xắn, dễ thương như một con chim bên cạnh Kazan. Với cặp mắt sáng ngời kỳ diệu và đôi bàn tay thon nhỏ sẵn sàng đặt lên con chó to, nàng đẹp quá thể.

Kazan hoàn toàn sững sờ, tự hỏi nên làm gì đây? Có nên lên gân, chuẩn bị nhảy tới cắn không? Thiếu phụ kia có giống như các thứ đáng sợ, gắn chặt trên tường kia và là thù địch của nó không? Liệu nó có phải tức khắc chồm lên ngoạm cái cổ trắng ngần kia không?

Nó thấy người chủ nhảy tới, mặt tái mét như người chết…

Thiếu phụ vẫn không sợ, để tay lên đầu Kazan. Nàng vừa chạm đến, toàn bộ gân cốt trong người Kazan đã run lên. Bằng cả hai tay, nàng ôm lấy đầu con chó sói kéo vào lòng. Rồi cúi sát mặt xuống, nàng thì thầm, dào dạt một cảm xúc mãnh liệt :

- Thế ra chú mình là Kazan, là Kazan yêu quí, là con chó anh hùng của cô đây. Chính chú mình đã cứu sống chú ấy và đã đưa chú ấy về tận đây cho cô, khi mà cả bầy đều chết hết. Chú mình là dũng sĩ của cô…

Và khuôn mặt cứ cúi sát mãi, sát mãi vào Kazan. Ôi thật là cực kỳ huyền diệu, Kazan nhận thấy qua lớp lông dày của mình một cảm xúc êm dịu ấm áp lạ lùng. Nó không nhúc nhích nữa. Hầu như nó không dám thở nữa.

Thời gian trôi qua khá lâu trước khi thiếu phụ ngẩng mặt lên. Lúc nàng đứng dậy, đôi mắt xanh ngấn lệ. Đứng cạnh nàng và Kazan, người đàn ông vẫn nắm tay, cắn chặt hai hàm răng. Giọng anh đứt quãng và đầy kinh ngạc :

- Thật là điên rồ! Chưa bao giờ anh thấy nó cho ai chạm vào người bằng tay không cả. Isobel, em lùi lại đi, anh van em!... Nhưng em nhìn nó kìa, lạy Chúa!

Lúc này Kazan đang rên khe khẽ, ngước đôi mắt sáng quắc nhìn chằm chằm vào mặt thiếu phụ. Dường như nó muốn van xin nàng hãy vuốt ve nữa đi, hãy áp mặt vào nó nữa đi. Một niềm khao khát đang xâm chiếm lòng nó, thúc nó đứng dậy đến bên nàng. Nó nghĩ nếu liều làm cái việc ấy liệu nó có bị mấy gậy không? Vậy mà trong thâm tâm, nó có mảy may ác gì đâu.

Tí một, tí một, nó trườn đến bên thiếu phụ, và nghe tiếng người chủ nói :

- Lạ chưa, lạ chưa… Isobel, em nhìn nó xem!

Kazan run rẩy, do dự. Nhưng không có gậy nào giáng xuống, buộc nó phải lùi lại cả. Cái mõm lành lạnh của nó chạm vào tấm áo mỏng, thiếu phụ vẫn nhìn nó với đôi mắt ngấn lệ.

- Anh xem, anh xem! Nàng nói rất khẽ.

Một phân, hai phân, rồi bốn phân. Thân hình to khoẻ màu xám của Kazan đã áp vào thiếu phụ. Bây giờ mõm nó tiến dần lên, chầm chầm, từ chân lên đầu gối, rồi đến bàn tay nhỏ nhắn xinh xinh đang buông thõng. Suốt thời gian đó, mắt nó vẫn không rời gương mặt Isobel. Nó trông thấy đôi môi đỏ chót của nàng khẽ run run.
Hình như bản thân nàng cũng hết sức ngạc nhiên về sự việc đang diễn ra. Người chủ cũng ngạc nhiên không kém. Anh đưa tay ra, vuốt đầu con chó.
Kazan vốn không thích đàn ông chạm vào người, dù người ấy là chủ nó. Bản chất và kinh nghiệm đã dạy cho nó phải coi chừng bàn tay con người. Tuy vậy, lúc này nó đành để mặc, vì nó cho rằng điều đó làm vui lòng thiếu phụ.
Đến lượt người chủ cũng dịu giọng với nó :

- Này Kazan, chú mình không cắn cô đấy chứ, phải không? Cả hai chúng ta đều yêu cô, quý cô. Có thể nào khác được nhỉ? Cô chung đấy nhé! Cô là của chúng ta, của riêng hai chúng ta thôi. Nếu cần để bảo vệ cô, chúng ta sẽ chiến đấu như hai mãnh hổ, phải không Kazan?

Rồi hai người bỏ Kazan đấy, với tấm chăn đi đường dành cho nó. Nó luôn luôn để mắt nhìn họ đi đi lại lại trong phòng. Nó cố lắng nghe, xem họ nói gì, nhưng không hiểu. Một thèm muốn da diết lại trào lên, thúc giục nó bò đến, chạm vào bàn tay, tấm áo hay bàn chân thiếu phụ.

Người đàn ông nói gì đó với thiếu phụ. Sau đó, thấy nàng cười lanh lảnh, tung tăng chạy đến bên cái hộp vuông to, kê chéo trong góc phòng.

Cái hộp kỳ dị có một hàm răng trắng muốt, dàn thành một dãy, dài hơn cả thân hình Kazan, cái nọ cạnh cái kia. Kazan bước vào phòng, tự hỏi không biết những chiếc răng kia dùng để làm gì. Thiếu phụ khẽ đặt ngón tay lên hàm răng, một loạt âm thanh thánh thót bỗng vang lên. Đối với tai Kazan không bao giờ tiếng gió vi vu trong cành lá, tiếng nước hài hoà của thác núi… hay tiếng chim hót líu lo mỗi độ xuân về lại có thể bì kịp những âm thanh đó.

Đây là lần đầu tiên Kazan được nghe tiếng nhạc của văn minh. Trong hồi lâu, nó sợ quá, run bần bật. Thế rồi nó cảm thấy niềm sợ hãi tan dần và trong toàn thân nó cũng dội lên những âm thanh đặc biệt. Nó ngồi xuống, muốn rống lên với ngàn sao như nó vẫn thường làm trên đồng tuyết trắng trong những đêm đông giá rét.

Nhưng một tình cảm khác đang ngăn chặn nó biểu lộ đó là tình cảm đối với thiếu phụ trước mặt. Nó đành lẳng lặng bò tới bên nàng.

Cảm thấy đôi mắt chủ đang lướt trên mình, nó tạm dừng một lúc, rồi lại lết tới, toàn thân như dán chặt xuống sàn. Được nửa chừng, các âm thanh bỗng lắng xuống, dịu dàng hơn, như sắp tắt. Tiếng của chủ nó vội thì thào, sôi nổi :

- Đàn tiếp đi em, đàn tiếp đi em…

Thiếu phụ ngoảnh đầu nhìn. Thấy Kazan nằm rạp xuống đất, nàng lại tiếp.
Lúc này đôi mắt người chủ đã bất lực, không còn giữ nổi con vật. Kazan bò luôn một hơi không dừng nữa, trước khi mõm chạm vào những nếp áo loà xoà trên mặt sàn. Nó lại run bắn lên. Người đàn bà đã bắt đầu cất tiếng hát.

Kazan cũng đã từng nghe một cô gái da đỏ hát những vần điệu dân ca trước lều của mình. Kazan cũng đã từng được nghe “Bài ca con nai” (3). một bài hát mang nhiều tính chất rừng rú.

Nhưng không một tiếng hát nào mà nó đã nghe có thể so sánh được với chất mật ngọt ngào đang trào tuôn từ đôi môi thiếu phụ.

Kazan co rúm người lại, có thu mình thật nhỏ, chỉ sợ bị đánh. Thấy nàng cũng nhìn lại, hiền từ, nó liền gác đầu lên hai đầu gối nàng. Một lần nữa bàn tay nàng lại vuốt ve mơn trớn nó, Kazan sung sướng nhắm mắt, thở nhẹ khoan khoái.

Tiếng nhạc, tiếng hát đã chấm dứt. Trên đầu, Kazan thoáng nghe có tiềng lao xao nhè nhẹ, trong đó lẫn cả tiếng cười vui và xúc động, còn người chủ thì lẩm bẩm :

- Anh vẫn luôn luôn quí con quỉ này… Nhưng không bao giờ anh ngờ đến một trò buồn cười như thế!


-------------------------------
-------------------------------
(1) Một giống chó kéo xe trượt tuyết ở miền Bắc Mỹ thường gọi là miền Bắc địa, kéo dài quãng 2.000km đến tận Bắc cực.
(2) Những vùng rộng lớn hoang vắng ở miền Bắc Mỹ.
(3) Nguyên văn caribou : một giống nai sừng nhài quạt, còn gọi là tuần lộc, sống ở miền Bắc Mỹ.


 
5,640
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Kazan (Ca-dăng) - James Oliver Curwood

Chương II . TRỞ LẠI VÙNG BẮC ĐỊA

Chắc hẳn Kazan cũng còn được hưởng những ngày hạnh phúc khác trong căn nhà đầy đủ tiện nghi, nơi Thorpe, chủ nó, về nghỉ ngơi bên người vợ trẻ, xa vùng Bắc địa.

Tất nhiên là nó vẫn thấy thiếu cảnh rừng sâu, thiếu cảnh bao la tuyết phủ, thiếu cái niềm vui chiến đấu bên các bạn mỗi khi được dẫn đầu, quanh mình rộn ràng tiếng sủa, để kéo chiếc xe trượt tuyết của chủ, lướt qua những khoản rừng thưa và các vùng Ba-ren. Nó ngạc nhiên không còn được nghe tiếng “Cu-sơ! Cu-sơ! Hui-a!” của người đánh xe và tiếng vun vút dễ sợ của ngọn roi kinh khủng dài sáu mét, làm bằng ruột nai, lúc nào cũng sẵn sàng quất vào mình nó và vào bầy chó “gâu gâu” dàn thành một hàng phía sau. Nhưng có một thứ khác, vô vàn dịu ngọt, đó là sự âu yếm quyến rũ của người thiếu phụ, đã thay thế cho những gì nó thiếu.

Sự hấp dẫn huyền bí đó không ngừng lởn vởn xung quanh nó; ngay cả lúc nàng đi vắng, không khí đó vẫn phảng phất trong phòng, nhờ vậy nó cũng thấy đỡ cô đơn.

Một buổi sáng , vì Kazan đã chạy gần như suốt đêm dưới trời sao, vợ Thorpe thấy nó nằm cuộn tròn sát vào cửa. Nàng liền cúi xuống, ôm nó vào lòng và như một lớp mây, làn tóc thơm của nàng bao phủ lấy nó. Từ đó, đêm nào Kazan về muộn nàng lại để một cái chăn bên bực cửa; để khi về nó được ngủ ấm. Biết nàng đang ở sau cánh cửa, Kazan sung sướng nằm nghĩ.

Mỗi ngày Kazan mỗi quên dần cảnh đồng tuyết bao la và quấn quýt bên người thiếu phụ với một tình cảm ngày thêm gắn bó. Cứ như vậy trong khoảng 15 hôm liền.

Nhưng rồi bắt đầu có sự thay đổi trong căn nhà xung quanh Kazan, đang có một sự thay đổi bất thường, một cảnh nhộn nhip mà nó không sao hiểu nổi, và người phụ nữ không lưu tâm đến nó nữa. Một nỗi khó chịu mơ hồ xâm chiếm tâm hồn nó. Kazan đánh hơi để cố hiểu sự kiện đang được chuẩn bị. Nó cố tìm hiểu trên nét mặt chủ điều chủ đang nghiền ngẫm .

Rồi một buổi sáng, cái vòng da nai, có xích sắt dính liền, được thắt vào quanh cổ Kazan, và người chủ cứ muốn kéo nó ra đường. Người ta định làm gì nó? Hẳn là muốn tống nó ra khỏi nhà. Nó liền ngồi phệt ngay xuống không chịu nhúc nhích .

Người chủ vỗ về giọng mơn trớn :

- Đi Kazan ! Nào chú mình!

Nhưng con vật chỉ lùi lại nhe nanh ra. Nó chờ đón tiếng roi quất hoặc một dùi giáng xuống lưng. Nhưng không có gì hết. Người chủ chỉ cười rồi lại cùng với nó vào trong nhà.

Lát sau Kazan ngoan ngoãn ra khỏi nhà. Isobel đi kèm bên, đặt tay lên đầu nó. Cũng chính nàng mời nó nhảy lên một loại xe tối om. Và vẫn nàng kéo nó vào cái góc tối nhất trong xe, để người chủ buộc xích. Sau đó, nàng với người chủ vừa đi ra vừa cười khúc khích như hai đứa trẻ.

Suốt mấy giờ đồng hồ dài dằng dặc, Kazan nằm yên đờ đẫn, bất động, lắng nghe tiếng bánh xe lăn vừa ầm ĩ vừa kì lạ đối với nó, và thỉnh thoảng lại có những tiếng chói tai đập vào tai nó. Nhiều lúc xe dừng lại và có tiếng người nói bên ngoài .

Cuối cùng, ở trạm dừng chân cuối cùng, nó nhận ra rõ ràng một giọng nói quen thuộc. Nó đứng dậy, kéo xích mà như thút thít muốn khóc. Cánh cửa chiếc xe kỳ lạ trượt trên rãnh; một người xuất hiện, cầm đèn và người chủ theo sau.

Kazan không để ý đến họ. Nó nhìn nhanh ra ngoài và khi được tháo xích, nó nhảy ngay lên đám tuyết trắng. Không tìm thấy gì, nó dướn thẳng người lên hít hít không khí.

Trên đầu Kazan vẫn những bức màn mà suốt đời nó đã từng hóng sủa. Xung quanh, quây lấy nó như một bức tường, những cánh rừng âm u vắng lặng trải dài đến tận chân trời. Cách đấy một quãng, có một số đèn kính khác .

Thorpe cầm lấy cái đèn của người cùng đi và dơ lên cao. Trước dấu hiệu đó, một tiếng gọi vang lên trong đêm tối :

- Kaaaa… zann!

Kazan quay lại và lao vút đi như một viên đạn cối. Chủ nó chạy theo, vừa cười vừa lầu bầu :

- Đồ ôn con !

Lúc đuổi kịp con chó, ở giữa nhóm đèn soi, Thorpe đã thấy nó bò rạp dưới chân Isobel. Nàng nhặt sợi xích lên.

- Em à, - Thorpe nói - nó là con chó của em và nó đã tự nguyện đến để em điều khiển nó. Nhưng chúng ta cứ nên cẩn thận với nó vì quê hương quen thuộc có thể thức tỉnh dã tính của nó.

- Trong nó có cả chó lẫn cái giống ngoài vòng pháp luật (1). Anh đã thấy nó chỉ đớp một cái mà làm đứt luôn bàn tay một anh da đỏ, và chỉ ngoạm một cái làm đứt luôn mạch máu cổ một con chó khác. Tất nhiên nó đã cứu anh… Nhưng anh không thể tin nó. Ta cứ phải cảnh giác !

Thorpe chưa nói xong thì, như để chứng minh lời anh, Kazan gầm lên như một ác thú, nheo mép, nhe bộ nanh dài ra. Lông trên lưng nó dựng đứng cả lên .

Thorpe đã đặt bàn tay vào khẩu súng giắt ở thắt lưng. Nhưng không phải Kazan định tấn công anh.

Quả vậy, có một bóng đen khác vừa ra khỏi bóng tối và xuất hiện giữa đám đen. Đấy là McCready, người dẫn đường, có nhiệm vụ đưa vợ chồng Thorpe, từ điểm cuối cùng đường sắt đến trại Sông Hồng. Nghỉ phép tại đây xong, chủ của Kazan sẽ trở lại và điều khiển những công trình xây dựng đường sắt xuyên lục địa, nối liền Đại Tây Dương và Thái Bình Dương (2), chạy qua Ca-na-đa.

Người ấy có cái cằm bạnh, gần như hàm thú.

Con vật vẫn gầm gừ với anh ta, và tiếng hăm doạ cuồn cuộn trong cổ họng nó mỗi lúc một khàn khàn. Isobel khẽ lắc sợi xích và ra lệnh :
- Kazan, nằm xuống!
Nghe tiếng nàng, nó bớt gầm gừ.
- Nằm xuống! – Nàng nhắc lại, và ấn mạnh đầu Kazan.
Nó đành nằm xuống chân, hai mép vẫn nhếch lên. Thorpe quan sát cảnh trên và ngạc nhiên về mối hận thù khó ghìm nổi đang rừng rực trong đôi mắt con chó lai sói.

Thình lình người dẫn đường tháo tung cái roi dài đánh chó ra. Gương mặt anh ta đanh lại và, quên mất đôi mắt xanh vẫn không rời mình, anh ta nhìn thẳng một cách hách dịch vào Kazan, quát to:
- Hu! Cu-sơ! Pedro, đây!
Nhưng Kazan không nhúc nhích.

McCready giang thẳng cánh, vung cái roi dài, và một vòng rộng loang loáng trong đêm đen, nghe đánh bốp một phát hệt như tiếng súng lục nổ. Và y nhắc lại :
- Lại đây! Pedro! Lại đây!
Kazan gầm gừ trong họng, nhưng vẫn không nhúc nhích. McCready quay lại nói với Thorpe:
- Lạ thật! Hình như tôi đã biết con chó này. Nếu nó là Pedro, như tôi nghĩ, thì nó nguy hiểm lắm.

Anh chàng lại đưa mắt nhìn vào đôi mắt Isobel. Nàng rùng mình. Thoạt trông thấy anh ta, nàng đã cảm thấy máu mình như đông lại nhưng cố nén cảm xúc, nàng nhớ đến những câu chuyện chồng thường kể về nhưng con người cộc cằn sống trên vùng rừng núi phía Bắc. Anh tả họ hơi thô kệch, nhưng kiên nghị rắn rỏi, trung thực, nên nàng cũng đã quen ca ngợi họ, yêu mến họ, trước khi gần họ.

Nàng cố đẩy lùi mối ác cảm tự nhiên của mình đối với McCready và mỉm cười với anh ta một cách nhã nhặn:
- Con chó nó không thích anh. Vậy anh có muốn tôi dàn hoà hai bên hộ không nào?
Nói xong, nàng cúi xuống với Kazan. Thorpe đã cầm lấy sợi xích, sẵn sàng giữ nó lại khi cần thiết.
McCready cũng cúi xuống với con chó.
- Anh hãy làm theo tôi – Isobel nói – Hãy vuốt ve nó đi…
Nhưng McCready đã ngẩng lên, đáp lại:
- Bà bạo thật! Tôi thì chả dám. Nó đớp tay tôi mất thôi.
Cả mấy người cùng lên đường, theo một lối mòn in dấu trên tuyết.

Sau khi đi qua một khu rừng bách rậm, đến khu trại từ nãy giờ bị che khuất. Thorpe đã rời đây ra đi từ mười lăm hôm trước, để cùng trở về với người vợ trẻ. Lều của anh, nơi trước đây anh ở chung với người dẫn đường cũ, vẫn còn đấy, và một cái lều mới, dành cho McCready, được dựng ngay cạnh bên.

Một đống lửa to đang bập bùng và bên cạnh có một chiếc xe trượt tuyết dài. Buộc vào mấy gốc cây gần đó, là những bóng đen mắt long lanh của các con chó kéo xe trượt tuyết, bạn đồng cương cũ mà Kazan được gặp lại. Gân cốt nó bỗng căng thẳng, bất động, trong khi Thorpe buộc dây xích vào xe. Kazan lại sắp trở về với những khu rừng của nó, với cuộc sống quen thuộc và vai trò đầu đàn những con chó khác.

Tò mò muốn biết cuộc sống lạ lùng, mới mẻ, từ nay mình sẽ dự phần, Isobel thấy gì cũng thích, cũng vui vẻ vỗ tay, Thorpe khẽ vén tấm cửa lều ra, mời nàng vào trước. Thấy nàng bước vào không ngoái nhìn lại, không một lời nào với mình, Kazan buồn quá và rên rỉ đưa mắt về phía McCready.
Vào đến trong lều, Thorpe nói :

- Em ạ, anh rất buồn là Jackpine, người dẫn đường trước đây, không chịu ở với ta. Anh ấy là một con người trung thực và chắc chắn, chính anh ấy đã đưa anh đến đây. Nhưng anh ấy cứ nằng nặc đòi về. Khẩn khoản cho tiền cũng không lay chuyển được anh ấy. Isobel ạ, anh sẵn sàng cho cả tháng lương của anh để em có được cái thú xem anh ấy điều khiển xe trượt tuyết đấy. Tay McCready này anh chỉ tin được có một nửa. Người ta bảo hắn là một tay khó hiểu đấy nhưng hắn thông thạo vùng ta phải đi qua như một tấm bản đồ. Giống chó không ưa thay đổi người cầm cương và tỏ ra hằn học. Nhất là Kazan, anh tin chắc nó chẳng ưa hắn một tí nào đâu.

Kazan vểnh tai lắng nghe giọng nói của Isobel lúc này đang vang lên trong lều.
Vì vậy nó không trông thấy McCready, cũng không nghe thấy tiếng y đang ranh mãnh mò đến sau lưng và, như một phát súng nổ, bất thần, y quát to :
- Pedro!
Kazan giật mình, rồi thu người lại như bị một ngọn roi da quất vào mình.
- Lần này, tao tóm được mày nhé, quỉ sứ! – McCready nói khẽ, mặt tái mét trước ánh lửa hồng - Người ta đổi tên cho mày, hả? Nhưng tao biết thừa là mày với tao đã biết nhau rồi!


-------------------------------------------
-------------------------------------------

Chú thích :
(1) : Người ta quen gọi sói là các con vật sống tự do ngoài vòng pháp luật của vùng Bắc địa.
(2) Công trình xây dựng đường sắt xuyên lục địa Canada trên Đại Tây Dương, đi từ miền Bắc Ha-li-phắc và Tân-ê-cốt, chạy qua phía Bắc Thượng Biển Hồ là biên giới giữa Hoa Kỳ và Canada, và sau một đoạn đường dài 5.000km, tới sát Thái Bình Dương, tại bờ biển va-cu-vơ.
 
5,640
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Kazan (Ca-dăng) - James Oliver Curwood

Chương III. CUỘC ĐỌ SỨC

Nói xong, McCready ngồi im lặng bên đống lửa, khá lâu. Mắt hắn không rời khỏi Kazan. Rồi khi biết chắc vợ chồng Thorpe đã ngủ trong lều, hắn cũng quay về, chui vào lều riêng.

Hắn lấy một chai uýt-ki, và ngồi nhấm nháp từng ngụm, liên tục trong suốt nửa giờ. Sau đó vẫn không buông chai rượu, hắn lại ra ngoài, ngồi lên thành xe, ngay cạnh sợi xích của Kazan.

Rượu uýt-ki bắt đầu phát huy hiệu lực, đối mắt hắn sáng lên một cách khác thường.

- Tao tóm được mày rồi! Nhưng ai đã đổi tên cũ cho mày? Mày vớ đâu ra được ông chủ mới này? Tất cả cái đó đều bí hiểm đối với tao. Hà, hà! Đáng tiếc là mày không biết nói…

Trước ngọn lửa ấm áp, mắt Kazan từ từ nhắm lại. Nó đang ngủ vật vờ, thấp thỏm, và hàng nghìn giấc mê nhảy múa trong đầu óc nó. Có lúc hình như nó chiến đấu, hàm táp bôm bốp. Lúc thì ở đầu một sợi dây, nó kéo một chiếc xe, trên đó McCready hay cô chủ nó ngồi. Lại có lúc cô hát trước mặt nó và ông chủ, với cái giọng du dương kỳ diệu. và trong giấc ngủ, thân hình Kazan khi thì run lên, khi thì co dúm lại. Rồi cảnh trí lại thay đổi. Trong mơ Kazan thấy nó dẫn đầu một đoàn sáu con chó tuyệt đẹp, chúng thuộc đội cảnh vệ hoàng gia đang kéo xe trượt tuyết của nhà vua. Người điều khiển xe trượt tuyết xưa kia là một anh chàng trẻ, đẹp trai. Anh này gọi nó là “Pedro, Pedro”. Cũng trên cái xe ấy, có một người khác, hai tay bị xích bằng những vòng sắt. Lát sau, chiếc xe dừng lại, người chủ cũ ngồi xuống bên một đống lửa, và chính nó cũng nằm trước đống lửa. Thế là người kia tiến tới, hai tay lúc này đã được tự do với một cái dùi gỗ to tướng. Từ phía sau, hắn giáng xuống đầu người chủ, khiến ông rú lên một tiếng rồi ngã vật ra.

Vừa lúc ấy, Kazan giật mình tỉnh dậy. Nó nhảy chồm lên, bờm dựng đứng, gầm gừ trong họng. Đống lửa đã tắt, hai cái lều chìm ngập trong bóng đêm mù mịt. Trời vẫn chưa sáng.

Trong đêm tối, Kazan trông thấy McCready đã dậy. Kazan biết McCready và người mang xích sắt chỉ là một, và nó vẫn không quên những làn roi da, những đòn gậy gộc thường xuyên của tên này sau khi hắn đã giết người chủ cũ.

Nghe tiếng gầm gừ của con chó-lai-sói, người dẫn đường đi ngang đến bên đống lửa, vừa chất cho củi cháy bùng lại, vừa hút sáo và cời cời những mẩu củi cháy dở. Khi ngọn lửa bắt đầu bừng đỏ, hắn hú lên một tiếng xé tai làm Thorpe và Isobel đều tỉnh giấc.

Lát sau hai người xuất hiện ở cửa lều. Isobel đến ngồi bên thành xe, cạnh Kazan. Tóc nàng xoã xuống lưng vàng óng. Nàng đang vuốt ve con chó thì McCready đến lục lọi mấy cái gói trong xe.

Nhanh hơn mèo rừng, Kazan nhảy vọt qua cái xe, căng hết chiều dài sợi xích ra. Người dẫn đường chỉ kịp lùi lại, còn Kazan, bị xích giằng đột ngột, ngã vật sang một bên, toàn thân đổ vào người Isobel.

Thorpe đang nhìn chỗ khác nên khi quay lại thì trông thấy cảnh cuối cùng và Isobel bị ngã vật trên chiếc xe. Anh cho là con chó cố ý nhảy vào người thiếu phụ. Tên dẫn đường lại chẳng nói gì. Sau khi yên trí là Isobel không bị thương, anh mới đưa tay tìm khẩu súng lục. Súng vẫn để trong lều. Nhưng dưới chân có cái roi của McCready để trên tuyết, Thorpe chụp lấy roi và trong cơn giận dữ, nhảy bổ đến bên Kazan.

Con chó nằm rạp, không một động tác nào để chạy và tự vệ. Đòn trừng phạt thật khủng khiếp! Nhưng nó cố chịu đựng, không kêu rên, không gầm gừ.

Thế rồi Kazan thấy người thiếu phụ đã hoàn hồn, chạy đến phía cây roi da đang vung trên đầu Thorpe và nắm giữ lại.

- Không được đánh nữa! – Nàng hét lên, giọng vừa ra lệnh vừa van lơn.

Nàng kéo chồng ra xa, thì thào, tái nhợt và run run cảm động :

- Kazan không nhảy vào em đâu. Nhưng lúc người dẫn đường cúi vào đống đồ đạc trong xe – nàng vừa nói vừa nắm chặt lấy cánh tay Thorpe – em cảm thấy tay hắn ta chạm vào tóc em. Lúc ấy Kazan mới nhảy tới. Nó, nó không định cắn đâu. Mà chính hắn ta! Có một điều gì đó xảy ra mà em không hiểu. Em sợ lắm.

- Kìa, em bình tĩnh lại đi! – Thorpe đáp – McCready chả nói là y biết con chó sao? Y có thể đã nuôi nó trước chúng ta, và đã đối xử bất công với nó, khiến Kazan chưa quên và vẫn giữ ác cảm với y. Có dịp anh sẽ làm sáng tỏ điều này. Trong khi chờ đợi, anh van em hãy thận trọng và tránh xa con vật.

-
Isobel nhận lời. Nhưng trông thấy cái đầu Kazan ngước về phía mình, một mắt vẫn nhắm vì bị roi quất phải và cái mõm rỉ máu. Nàng thương quá. Tuy vậy, nàng phải tự kiềm chế, không bước đến bên Kazan. Gần như bị mù, con vật cũng biết là chính nàng đã ngăn chặn đòn trừng phạt. Vừa nhìn nàng vừa thút thít khóc, nó vẫy vẫy cái đuôi xù trên tuyết.

Mặt trời bắt đầu mọc. Người dẫn đường đã thắng chó vào xe, cả đoàn lên đường.
Ngày hôm ấy dài và vất vả. Kazan chạy trước mở đường, một mắt vẫn nhắm, nóng rát như lửa, và toàn thân nhức nhối vì những lằn roi da nai.

Nhưng đâu phải nỗi đau thể xác làm nó buồn bã cúi đầu và mất hết niềm phấn khởi quen thuộc, mỗi khi dẫn đầu các bạn. Chính tinh thần nó cũng đang rỉ máu. Đây là lần đầu tiên trong đời, nó cảm thấy chán chường mất hết can đảm. Trước đây McCready đã đánh đập nó. Hôm nay hết ở trong tay hắn lại trong tay Thorpe, ngọn roi răn đe lại nổ bên tai nó, và giọng nói khắc nghiệt của hai người lệnh cho nó phải chạy, tuy nó khập khiễng.

Điều làm cho nó chán và đau khổ là mỗi chặng dừng chân, cô chủ yêu quí xa lánh nó và cái xích. Tối đến, lúc dựng trại cũng vẫn thế. Nàng ngồi ngoài tầm và không nói năng gì với nó cả.

Nàng nhìn nó với đôi mắt lạnh lùng làm nó hoang mang và tự hỏi, liệu rồi đây nàng có đánh nó như người khác không. Nó nằm xoài trên tuyết, nơi tối nhất, quay lưng lại đống lửa ấm. Như thế có nghĩa là trái tim đáng thương của nó, trái tim của một con chó như nó, đang vô cùng đau đớn. Ngoài nàng ra, không một ai đoán được điều đó. Nàng không gọi nó, không đến với nó, nhưng nàng luôn luôn quan sát nó, và McCready, Kazan cũng luôn rình dò hắn ta.

Ăn tối xong người ta dựng hai chiếc lều. Cũng như hôm trước, Thorpe và Isobel rút vào chiếc lều của mình, McCready ở lại ngoài trời.

Tuyết bắt đầu rơi. Ngồi bên bếp lửa, McCready đã rút chai uýt-ki của hắn ra. Kazan vẫn không ngừng cảnh giác theo dõi hắn. Ngọn lửa làm đỏ rực bộ mặt hắn, và lấp lánh bộ hàm răng trắng ởn. Nhiều lần, hắn đứng dậy, đến dán tai vào chiếc lều của Thorpe và người thiếu phụ. Bên trong hoàn toàn im lặng, ngoại trừ tiếng ngáy của Thorpe.

Tên dẫn đường ngướcmắt nhìn trời. Tuyết rơi lả tả, dầy đến nỗi mắt hắn đã thoáng nhìn thấy những bông tuyết trắng. Hắn gạt tuyết xuống đất và đi quan sát dấu vết đoàn xe lèo tèo đã để lại từ mấy giờ trước.

Dấu vết hầu như đã được phủ kín. Chỉ một giờ nữa thôi, là không còn ai biết có người đã đi qua đây. Cả đống lửa, nếu tắt, cũng sẽ bị phủ kín trước khi trời sáng.

McCready vẫn không vào lều, còn uống thêm nhiều ngụm nữa. Những tiếng ậm ừ, những tiếng reo vui từ môi hắn thoát ra. Tim hắn đập thình thịch trong ngực. Nhưng tim Kazan còn đập mạnh hơn, khi thấy tên dẫn đường nhặt lấy cái dùi gỗ to tướng và đem dựng vào một gốc cây.

Tiếp đó hắn lấy trên xe một cái đèn thắp lên. Đoạn, cầm đèn ở tay, hắn tiến đến bên lều.

- Này! Thorpe… Thorpe! - Hắn khẽ gọi.

Thorpe vẫn ngáy.

McCready khẽ vén cửa lều và gọi to hơn tí nữa:
- Thorpe!

Vẫn không thấy trả lời. Không chút động tĩnh. Tên dẫn đường bèn luồn tay vào lều cởi sợi dây buộc cửa phía trong và vén hẳn cửa lên. Soi đèn về phía hai vợ chồng đang ngủ, hắn thấy rõ mái tóc vàng óng của Isobel, đang rúc đầu vào sát vai chồng.

Thorpe chợt tỉnh giấc. McCready vội buông cửa lều xuống, và đứng ngoài, vừa lay cửa vừa giả vờ gọi :

- Này! Thorpe… Thorpe…

Lần này, Thorpe đáp lại :

- Có! McCready, cậu đấy à?

Hắn đáp, vẫn giọng khe khẽ :
- Phải. Ông có thể ra đây một phút không? Trong rừng đang có cái gì không bình thường đấy. Chẳng cần gọi bà ấy dậy đâu…
-
Hắn lùi lại đứng chờ. Thorpe xuất hiện. McCready đưa tay chỉ hàng bách đen kịt và nói :
- Tôi cam đoan là trong rừng có người đang rình mò chúng ta. Ban nãy lúc đi tìm củi đốt, tôi thấy có một bóng người. Đêm tối thế này rất thích hợp cho bọn ăn trộm chó. Ông cầm lấy đèn. Nếu tôi không say thì chắc chắn chúng ta sẽ tìm thấy dấu chân trên tuyết.

Hắn trao đèn cho Thorpe và cầm lấy thanh gỗ to.

Kazan cố nén tiếng gầm gừ đang cuồn cuộn trong cuống họng. Nó chỉ muốn rống lên một tiếng để báo hiệu cho chủ và nhảy theo, cùng với sợi xích. Nhưng nó nghĩ, làm thế sẽ bị đánh ngay. Nó đành im lặng nhìn hai người cùng đi. Đoạn nó nằm chờ và lắng tai nghe.

Chẳng mấy lúc có tiếng chân đạp răng rắc trên tuyết. McCready trở về một mình. Kazan không ngạc nhiên, và nó biết, ban đêm, trong bàn tay kia, cái dùi gỗ có nghĩa là gì rồi.

Bộ mặt tên dẫn đường lúc này nom thật khủng khiếp! Không phải một con người nữa, mà là một con ác thú. Cái mũ đã mất đâu, hắn để đầu trần dưới trời tuyết. Hắn cười khùng khục khả ố, nhưng cố ghìm lại.

Kazan nằm thu mình sâu hơn nữa vào bóng tối. nó thấy McCready, một tay cầm đèn, một tay cầm dùi gỗ, tiến về phía lều của chủ. Đến đó, hắn bỏ dùi gỗ, vén cửa lên. Nhìn vào trong, nhận thấy thiếu phụ vẫn ngủ, hắn liền lẻn vào, nhẹ nhàng lặng lẽ như một con mèo. Cửa lều lại thả xuống.

Vào đến trong, tên dẫn đường treo đèn lên cái đinh cột chống lều ở giữa. Isobel vẫn ngủ bình thản.

Bên ngoài, trong đêm dày, Kazan cố tìm hiểu ý nghĩa của những gì bất thường đang nối tiếp xảy ra. Thoạt tiên chủ nó biến mất. Thế rồi tên dẫn đường vào làm gì trong lều, nơi mà mọi thứ đều là của chủ? Nhờ một kẽ hở còn lại, nó trong thấy cái bóng to tướng của McCready.

Đột nhiên con chó lai sói đứng lên, nghe ngóng, lưng thẳng ra, lông dựng đứng. Thình lình một tiếng kêu thét lên. Trong tiếng kêu hãi hùng khủng khiếp, nó nhận ra giọng nàng, đúng giọng của nàng. Lập tức nó lao về phía lều. Sợi xích giằng nó lại, cái vòng cổ thắt chẹn ngang họng tiếng rống của nó.

Lúc này thấy lều rung chuyển xô giật, nó biết là cô chủ đang vật nhau với tên kia và cả hai đang chiến đấu quyết liệt. tiếng gào thét liên tiếp. Nàng gọi Thorpe và cũng hét lên:

- Kazan! Kazan!

Nó lại chồm tới và ngã vật ra. Lần thứ hai, rồi lần thứ ba, nó cố dồn thêm sức. Chiếc vòng cổ như thít vào họng và cứa vào thịt như một lưỡi dao sắc. Nó buộc lòng phải dừng lại để lấy hơi.

Trong lều, cuộc chiến đấu vẫn tiếp diễn khủng khiếp. Chốc chốc, qua kẽ lều, Kazan lại thoáng thấy hai bóng đen, lúc thì đứng lúc thì lăn lộn trên đất. Cố gắng một lần cuối cùng mạnh hơn, con vật dùng tất cả trọng lượng tung người lên cùng với một tiếng rống dữ tợn. Quanh cổ nó như co tiếng răng rắc. Vòng cổ bật ra rồi.

Nhanh như chớp, Kazan đã ở trong lều, chồm lên cắn chặt cuống họng McCready. Hai hàm răng thép của nó đã nghiến khít là chỉ có chết. Một tiếng rên hừ hừ tắc nghẹn rồi tiếp theo, một tiếng nấc ghê rợn, và McCready quỵ xuống, nằm vật ra. Dòng máu nóng ròng ròng trong mõm càng làm Kazan cắm sâu nanh hơn vào cổ kẻ thù.

Nó nghe tiếng cô chủ gọi, cô kéo, cô giằng cái cổ xù, cố bắt nó nhả. Mãi nó mới chịu nghe, rồi mới quyết định há hàm ra. Isobel liền cúi xuống, nhìn tên kia, rồi hai tay ôm lấy mặt.

Sau đó nàng lùi đến tận giường và nằm vật trên đống chăn. Nàng cũng không cựa nữa. Lo lắng, Kazan đến bên cạnh nàng. Nó hít mặt, hít đôi tay lạnh ngắt, và âu yếm dụi mõm vào. Nàng vẫn không nhúc nhích, mắt nhắm nghiền.

Không rời mắt khỏi cái xác McCready, và sẵn sàng làm lại nếu cần, Kazan ngồi sát vào giường. Nó tự hỏi tại sao thiếu phụ cũng bất động như thế? Cuối cùng nàng khẽ cựa, mở mắt ra và chạm tay vào nó.

Bên ngoài có tiếng chân giẫm trên tuyết răng rắc. Kazan chạy đến cửa lều. Qua ánh lửa, nó thấy Thorpe đi trong tối, chầm chậm, chống gậy, khập khiễng, thất thểu, mặt bê bết máu.

Trông thấy cái gậy, Kazan hãi hùng run lên. Chủ nó sẽ nói sao đây khi thấy nó cắn chết McCready? Chắc nó sẽ bị đánh nữa, và đánh rất khủng khiếp.

Nhanh như chớp, nó lẩn vào bóng tối và biến vào rừng bách. Đến đấy, nó ngoảnh lại, một tiếng rên đau xót dâng lên nghẹn ngào trong cuống họng. Sau việc này, từ nay, nó sẽ luôn luôn bị đánh, bị đánh liên tục. Và để trừng phạt nó, cả nàng rồi cũng sẽ đánh nó. Nếu nó còn ở đây lâu, họ sẽ đuổi theo và, khi bắt được, sẽ đánh nó.

Đứng xa đống lửa, con chó lai sói ngoảnh nhìn về phía rừng sâu. Trong cảnh đen tối mù mịt kia, không có gậy, không có dùi gỗ, không có roi da rát bỏng. Chẳng bao giờ người ta tìm được nó.

Nó dường như do dự một lúc nữa, rồi câm lặng như một dã thú mà nó đang muốn tìm đến, nó tiến sâu mãi vào bóng đêm.
 
5,640
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Kazan (Ca-dăng) - James Oliver Curwood

Chương IV THOÁT VÒNG NÔ LỆ

Gió ngàn gào rít thảm thiết trên các ngọn thông. Gần suốt đêm, Kazan lang thang trong cảnh rừng sâu huyền bí.

Rồi nó lại trở về gần chỗ cắm trại và, không ra quá phạm vi che chở của cây rừng, nó nằm xuống, run cầm cập, trên lớp tuyết dày, mắt nhìn đăm đăm chiếc lều, nơi đã xảy ra sự việc khủng khiếp.

Nó đánh hơi thấy mùi chết trong không khí, cái chết do nó gây ra. Ba phần tư máu chó trong người nó xót xa, thổn thức, còn một phần tư máu sói thì vẫn xù lông, mắt nhìn hằn học, nhe nanh sẵn sàng để cắn xé.

Ba lần nó nhìn thấy Thopre lảo đảo và, trán vẫn băng bó, bước ra khỏi lều, gọi rất to:
- Kazan! Kazan! Kazan!

Ba lần Isobel đều đứng bên cạnh Thopre. Nhờ đống lửa, Kazan có thể trông thấy nàng, đúng như lúc nó chồm lên bảo vệ nàng và cắn chết tên kia. Da mặt nàng vẫn còn tái mét, nhợt nhạt như tuyết, vì tai họa vừa qua, và vẻ kinh hoàng vẫn chưa hoàn toàn mất hẳn trong đôi mắt xanh. Nàng cũng gọi :

- Kazan !Kazan!Kazan!

Thế là bản năng chó hình như thắng bản năng sói; nó rùng mình sung sướng, bò tới một tí, gần như quyết tâm đón nhận những trận đòn mà nó nghĩ là đang chờ đợi nó. Nhưng cuối cùng hình ảnh cái dùi gỗ vẫn mạnh hơn, nó lại đành lùi vào bóng tối. Thất vọng, Thopre và Isobel quay vào lều. Cảnh vật trở lại im lìm như cũ.

Không thấy ai nữa, và khi ngọn lửa leo lét sắp tắt, Kazan quyết tâm tiến về phía trước xe và đến sát bên những mẩu củi tàn. Xa hơn một tí, xác anh chàng bị nó cắn chết, vẫn nằm, đậy chăn. Thopre đã kéo xác hắn ra đó đặt dưới một bụi rậm.

Để sưởi ấm, Kazan nằm cạnh đống than hồng, mũi gác lên chân, mắt nhìn chừng về phía chiếc lều, sẵn sàng chạy chốn vào rừng nếu có gì khả nghi. Nhưng mặc dầu cố gắng nằm thức, nó vẫn không sao cưỡng lại được cái ấm áp dễ chịa tỏa ra từ đống than hồng và lớp tro nóng. Nhiều lần mắt nó nhắm lại và ngủ đi mê mệt.

Sau khi ngủ mơ lúc nào thì thấy bàn tay âu yếm của Isobel, có lúc lại mơ thấy cuộc chiến đấu, hai hàm răng nó bập lại như hai gọng kìm. Kazan giật mình tỉnh vậy, vừa đúng lúc đó nó nhìn thấy tấm vải lều chuyển động. Nó vội lao ngay về phía ngàn thông.

Trời sáng. Thopre bước ra, tay dắt người vợ trẻ, tay cầm súng. Cả hai cùng nhìn phía dưới cái xác dưới tấm chăn. Rồi Thopre ngửa đầu cất tiếng gọi :

- Hú…ú…ú…Kazan!Kazan!Kazan!

Qua những cành thông thấp, Kazan nhìn về phía Thopre, về phía khẩu súng, và bốn chân nó run cầm cập. Rõ ràng là người chủ đang tìm cách dụ dỗ nó, lôi kéo nó về cái thứ giết người kia.

- Kazan! Kazan! Kazan! Kaaaazannnn!-Thopre lại gọi to;

Kazan biết khoảng cách không có nghĩa lý gì đối với cái thứ lạnh lùng giết người Thopre đang cầm ở tay. Đứng lại lâu hơn là nguy hiểm. Lần cuối cùng nó quay về phía Isobel, đôi mắt tràn ngập yêu thương khó tả. Giờ phút quyết định từ biệt đã điểm. Nó muốn thốt lên với bầu trời mờ xám niềm thất vọng và nỗi cô đơn của nó. Nhưng để khỏi bị lộ nó đành im tiếng.

- Nó đi rồi ! -Isobel xúc động nói.

- Phải đi rồi ! -Thopre đáp, giọng không tin tưởng lắm. Anh đã bất công đối với nó. Nó biết còn anh thì lại không ngờ. Anh vô cùng hối tiếc là đã ngu dại đánh nó, nhưng anh đã làm. Bây giờ thì quá muộn … nó đã đi và không quay về nữa.

- Có, có! Nó sẽ trở về…Người thiếu phụ cãi lại - Nó không bỏ em đâu. Nó yêu em. Trước đây nó còn là dã thú và dữ tợn. Nó biết là em rất yêu nó. Thế nào nó cũng sẽ về! Anh nghe xem..

Từ rừng sâu, một tiếng rống dài thảm thiết vọng đến tận trại.

Đây là lời chào tạm biệt của Kazan.
 
5,640
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Kazan (Ca-dăng) - James Oliver Curwood

CHƯƠNG V. KAZAN GẶP SÓI CÁI XÁM

Kazan ngồi xuống, rống lên một tiếng thật vang xa rồi hít hít trong không khí, cái tự do từ nay hoàn toàn của nó. Xung quanh, ánh bình minh đang xua tan dần những cảnh tối tăm của rừng thẳm.

Kể từ ngày ở một phương trời xa thẳm, bên bờ sông Mắc – ken – đi, nó bị cánh lái buôn quanh vùng mua lại của người da đỏ và, lần đầu tiên, bị đóng đai cương vào một chiếc xe trượt tuyết, nó thường mơ tưởng với một niềm khao khát nồng nàn, tới cảnh tự do mà dòng máu sói trong người luôn thôi thúc nó phải đạt tới. Nhưng chưa bao giờ nó dám liều một một cách thật sự. Giờ đây, việc đó đã thành sự thật, nó cảm thấy quá ư ngỡ ngàng.

Mặt trời đã lên cao, lúc Kazan đến bên một bờ phẳng lặng, đóng băng, trên một vũng trũng giữa hai dãy núi. Tùng bách mọc chi chít xung quanh bờ, rậm đến mức tuyết cũng khó xuyên thấu cành lá và ngay cả ánh sáng cũng khó lọt qua, và giữa ban ngày mà ở đó như là lúc xâm xẩm tối.

Ánh mặt trời vẫn không thể nào xua tan hết tâm trạng bần thần của Kazan. Nó đã thoát khỏi sự ràng buộc của con người, và xung quanh không còn một thứ gì gợi đến sự có mặt đáng ghét của họ. Nhưng nó thấy thiếu cái xã hội loài chó, thiếu bếp lửa hồng, thiếu những thức ăn sắp sẵn, cho đến chiếc xe quen thuộc, tất cả những thứ ấy xưa nay bao giờ cũng khăng khít với cuộc sống của nó. Kazan cảm thấy cô đơn quá.

Đó là những luyến tiếc của con chó. Nhưng dòng máu sói trong người nó lại phản ứng lại, và như nói với con chó rằng : đâu đó, trong bầu trời vắng lặng này vẫn có những người anh em; muốn gọi chúng đến thì phải ngồi xuống, rống vang nỗi cô đơn của mình. Đã nhiều lần Kazan cảm thấy tiếng gọi đó rung lên trong lồng ngực và trong cổ họng mà vẫn không tài nào bật nó được ra khỏi họng.

Thức ăn đến với nó nhanh hơn tiếng kêu. Vào quãng giữa trưa nó dồn được một con thỏ trắng to vào gốc cây và cắn chết. Thịt nóng, máu tươi ngon hơn món cá đóng băng và món mỡ cừu quen thuộc. Hương vị ngon lành của bữa ăn mới khiến nó thêm tin tưởng.

Buổi chiều nó rượt theo nhiều chú thỏ khác và giết thêm hai con nữa. Từ trước đến nay nó không hề biết cái thú săn đuổi và cái thú tuỳ thích giết mồi, mặc dầu nó không ăn hết những thứ kiếm được.

Rồi nó nhận thấy thỏ chết quá dễ dàng. Chẳng phải chiến đấu gì cả. Lúc đói thì thịt thỏ tươi thật, mềm thật nhưng niềm vui nhỏ bé quá chừng. Vì vậy nó có ý tìm một thú săn quan trọng hơn.

Nó bước nghênh ngang, không nghĩ gì đến việc ẩn nấp, đầu ngẩng cao, bờm dựng đứng. Cái đuôi xù tự do ve vẩy như đuôi sói. Theo bản năng, nó đi về hướng Tây Bắc. Đó là tiếng gọi của những ngày xa xưa khi nó còn sống bên bờ sông Mắc-ken-đi, cách đó một nghìn dặm.

Nó gặp nhiều dấu chân khác nhau và ngửi hít những mùi để lại của vó hươu, vó nai. Nó nhận ra dấu vết những bàn chân có lông dày của một con mèo rừng. Nó cũng lần theo được vết một con cáo và nhờ đó đến được một khu rừng thưa có thông to bao bọc. Ở đây, tuyết bị nhiều dấu chân thú nén xuống và vấy máu đỏ lòm. Trên mặt đất lăn lóc đầu một con cú, cùng với lông, cánh và ruột. Kazan chợt hiểu ra, nó không phải là kẻ săn bắt duy nhất trong vùng.

Về chiều, nó lại bắt gặp những lốt chân giống hệt lốt chân của nó. Dấu vết vừa để lại, hơi chúng cũng còn ngửi thấy khiến nó rên rỉ, ngồi xuống, và, bằng những âm thanh mới, thử rống lên một tiếng gọi của sói.

Trong rừng bóng đêm càng to ra nó càng cảm thấy cô đơn, và càng cảm thấy cấp thiết phải gọi anh em cùng loài cùng giống đến với mình. Nó đã đi suốt ngày nhưng không thấy mỏi mệt. Đêm khuya vằng vặc, bầu trời đầy sao, vừng trăng lên mãi.

Nó ngồi trên tuyết, mũi hướng về các ngọn thông. Dòng máu sói trong mình nó chợt dâng lên, thoát ra thành một tiếng tru dài rùng rợn. Vang xa suốt mấy dặm rừng, qua cảnh vắng lặng của đêm tối.

Rống xong, nó ngồi yên, lắng nghe, vô cùng kiêu hãnh trước thanh âm trầm bổng, kỳ lạ và mới mẻ mà họng nó vừa bật lên. Nhưng chẳng có một tiếng nào đáp lại. Nó không biết là đã tru ngược chiều gió và âm vang tiếng hú đã bị đẩy lùi lại sau lưng. Chỉ có một con nai đực bị thức tỉnh, vội chạy trốn ngay gần chỗ của Kazan, làm các bụi cây gãy răng rắc, đôi gạc đồ sộ của nó va bồm bộp vào các cành cây nghe như tiếng dùi gõ trống.

Kazan rống thêm hai tiếng nữa, để nắm thật chắc tiếng rống mới của mình. Rồi nó lại lên đường.

Đến chân một ngọn núi dốc đứng và trơn, nó phải trèo vòng quanh mới lên được tới đỉnh.

Trên đó, nó thấy hình như trăng sao gần hơn khiến nó vô cùng kinh ngạc. Rồi snhìn sang bên kia núi, nó thấy phía dưới có một cánh đồng bao la, với một mặt hồ đóng băng, đang lấp lánh ánh trăng vằng vặc. Từ hồ thoát ra một con sông cũng đóng băng trắng và biến mất trong hàng cây có vẻ như bớt rậm rạp và mọc thưa hơn những cây quanh đầm.

Vừa lúc ấy, xa xa trên cánh đồng, một tiếng rống vang lên, y hệt tiếng vừa rồi của nó, tiếng của sói! Hàm run lập cập, nanh nhe lấp lánh, nó định đáp lại ngay. Nhưng bản năng dè dặt của Núi Rừng(1) khiến nó phải khôn ngoan, khiến nó phải im tiếng.

Nó tiếp tục lắng nghe, vô cùng hồi hộp, trong lòng nôn nao vì một kích thích man rợ mà nó thấy khó ghìm giữ được. Chẳng mấy lúc tiếng rống đến gần và nhiều tiếng khác hoà thêm, một thứ tiếng sủa gấp lanh lảnh, được những tiếng khác đáp lại xa xa. Sói đang gọi đàn để cùng đi săn đêm.

Kazan ngồi, run run, vẫn không dám cử động. Không phải nó sợ. Nhưng ngọn núi mà nó đang ngồi đây hình như cắt đôi vũ trụ.

Đằng kia, phía dưới nó, là một thế giới mới, không bị con người kiềm toả, không có cảnh sống nô lệ. Đằng sau có một cái gì đó như bay lượn trong không khí, như lôi cuốn nó lên không trung, tràn ngập ánh trăng, mà nó đang chăm chú nhìn không mỏi. Một người đàn bà dịu hiền từng đối xử rất tốt với nó, mà nó tưởng như vẫn còn văng vẳng tiếng nói, vẫn cảm thấy bàn tay vuốt ve, đang gọi nó xuyên qua rừng thẳm. Nó tưởng như đang nghe tiếng cười trong trẻo đó, tiếng cười từng làm nó xiết bao sung sướng, và như đamg nhìn thấy gương mặt trẻ trung đó.

Trong hai tiếng gọi đó nó phải đáp lại tiếng gọi nào đây? Có nên đáp lại tiếng gọi dưới kia, trên cánh đồng chăng? Hay đáp lại tiếng kia, cái tiếng dắt nó trở về với nhưng con người độc ác, với dùi gỗ, gậy gộc, với những ngọn roi da vun vút? Kazan do dự một lúc rất lâu, không nhúc nhích, ngoảnh đầu hết nhìn phía này, lại nhìn phía kia.

Rồi nó lần xuống cánh đồng.

Suốt đêm nó lảng vảng quanh bầy sói, nhưng không dám đến gần quá. Nó làm thế là phải. Lông nó còn cái mùi đặc biệt của đai cương, vẫn mang kéo và hơi người mà nó đã cùng sống chung. Bầy sói có thể xé tan xác nó ngay lập tức. Bản năng sinh tồn của dã thú đến với nó, như một tiếng thì thầm nhỏ nhẹ, qua bao thế hệ liên tiếp của dòng giống sói rừng, đã dạy nó phải làm như vậy, cũng như đã bày cho nó, để tẩm ướp vào người một mùi khác, nằm lăn ra tuyết, nơi có nhiều vết chân nhất của bầy anh em hoang dã của nó.

Bầy thú đã cắn chết, bên bờ hồ, một con nai và cùng nhau xé ăn đến tận sáng. Kazan hít hít làn gió trước mặt. Gió đưa đến cho nó mùi máu tươi và mùi thịt nóng, mơn man mũi nó một cách khoan khoái. Đôi tai rất thính của nó nghe rõ mồn một tiếng xương gãy rau ráu trong các hàm răng. Nhưng bản năng tự vệ của nó vẫn mạnh hơn sự cám dỗ.

Khi trời sáng tỏ, khi bầy sói đã tản mát ra hai bên cánh đồng, Kazan liền đến chỗ mà bọn thú vừa cắn xé phè phỡn, Trước mắt nó chỉ còn đám tuyết lênh láng máu me, bừa bãi ruột gan và những mảnh da dai nhằng rách nát. Một ít mẩu thịt, do bầy thú no nê bỏ sót, còn dính ở những khúc xương to, Kazan sục mõm vào những mẩu thịt vụn ấy và lại nằm lăn trên đám tuyết để tận hưởng cho thoả thuê tất cả những mùi thịt thừa đó.

Trời đã tối mà Kazan vẫn nằm nguyên tại chỗ và khi trăng sao hiện lên, nó cất tiếng rống vang, lần này thì không run sợ nữa.

Một bầy sói thứ hai kéo tới, từ phía nam, và đang đuổi theo một con nai to khác, dồn nó về phía hồ băng. Trời đêm cũng gần sáng rõ như ban ngày. Kazan trông thấy con thú bị vây, một con nai cái, từ một rừng thông chạy ra, bám theo sau là bầy sói. Chúng cả thảy độ mười hai con, chia làm hai nhóm tiến đến bao vây con thú theo hình móng ngựa, mỗi nhóm có một con đầu đàn và vòng vây dần khép lại.

Lúc con nai chạy tới ngang tầm nó, Kazan liền sủa một tiếng thật to và lập tức phóng tới như một mũi tên bám sát vó con vật. Được quãng hai trăm yard, con nai bỗng ngoặt sang phải và lao vào một con sói đầu đàn há mõm cản đường nó. Con nai dừng lại; nhanh như chớp, Kazan lợi dụng thời cơ đó nhảy tới ngoặm chặt vào cổ nai.

Trong lúc số sói rớt lại vừa chạy tới vừa sủa, con vật thất thế lăn ra đất, toàn thân gần như đè lên Kazan. Lúc này nanh Kazan mỗi giây mỗi cắm sâu vào cổ đối thủ. Bất chấp cái khối thịt đè nặng trên mình, và làm nó khó thở, Kazan nhất định không buông tha con thú. Đây là con mồi to đầu tiên của nó. Máu dồn lên, bừng bừng hơn lửa, nó gầm gừ qua hai hàm răng siết chặt.
Mãi đến lúc con nai quằn quại giãy chết lần cuối cùng Kazan mới chịu vùng ra khỏi khối thịt nặng. Trong ngày hôm đó nó đã cắn chết và ăn một con thỏ rừng nên không đói. Nó liền lùi lại và ngồi trên tuyết, bình thản nhìn bầy sói xâu xé cái xác.

Bữa tiệc sắp kết thúc, Kazan đánh liều lần đến bên đám anh em, khẽ dụi mõm vào giữa hai con sói; lập tức nó bị đớp ngay một miếng, như món quà chào mừng.

Kazan lùi lại một tí, đang tự hỏi có nên tìm cách thân thiện nữa không, thì một con sói cái to, tách ra khỏi bầy, thình lình phi thẳng vào cổ nó. Kazan chỉ vừa kịp đưa vai đỡ đòn tấn công, rồi hai con vật cứ thế lăn, lăn mãi trên tuyết.

Kazan và con sói cái vừa đứng dậy thì cuộc chiến đấu bất thần thu hút ngay lũ sói. Bỏ chỗ nai thừa, chúng quây tròn lại, nhe hết cả nanh ra, xù những bộ lưng màu xám vàng lên như những chiếc bàn chải đại; trong khi đó một trong hai con đầu đàn lao vào Kazan để thách thức. Hai bên vừa thủ thế với nhau, thì cả bầy sói dàn thành một vòng vây kín quanh hai con vật đang quyết chiến.

Trò đọ sức giữa vòng vây như vậy không xa lạ gì đối với Kazan. Đây là lối chiến đấu thông thường của chó kéo xe trượt tuyết, lúc muốn giải quyết chuyện tranh chấp. Nếu chủ nhân không can thiệp với roi da hay dùi gỗ, thì cuộc chiến nhất định phải kết thúc bằng cái chết của một trong hai đấu thủ. Đôi khi cả hai đều phải bỏ xác lại. Ở đây, lúc này, không thể chờ đợi sự can thiệp của con người. Chỉ có vòng vây của lũ quỉ nanh nhọn đang nóng lòng chờ đợi kết quả cuộc chiến, sẵn sàng nhảy xổ lên mình đối thủ đầu tiên nào dán lưng hay dán sườn xuống đất, và xé tan xác nó ra. Kazan là một kẻ ngoại bầy. Tuy vậy nó không có gì phải lo ngại sự tấn công từ hàng ngũ khán giả. Đối với mỗi đối thủ, luật chiến đấu rất công bằng.

Vậy Kazan chỉ cần phải đương đầu với con đầu đàn lông xám đã khiêu khích nó. Vai sát vai, cả hai xoay theo vòng tròn, con này rình cơ hội thuận lợi để nhảy vào ngoạm con kia. Nơi mà mấy giây phút trước, nghe lập bập tiếng hàm, xoàng xoạc tiếng thịt, răng rắc tiếng xương, thì lúc này lại im phăng phắc.

Trong nhũng trường hợp tương tự, những giống chó thoái hoá miền nam, chân yếu, cổ mềm, thường chỉ nhe nanh, gầm gừ doạ dẫm. Kazan và con sói to, ngược lại, vẫn giữ vững thái độ bình tĩnh, hay ít nhất đó là bề ngoài. Hai tai chĩa thẳng ra phúa trước không cúp xuống sợ hãi, mà cái đuôi xù vẫn ve vẩy trước gió cũng không cụp vào giữa hai cẳng sau.

Thình lình con sói thử mở đòn tấn công đầu tiên. Kazan tránh được ngay. Hai hàm răng con sói bập vào nhau, nghe như tiếng thép va nhau; Kazan lợi dụng luôn cơ hội để trả miếng. Như những mũi dao sắc nhọn, nanh Kazan cày một đường dài trên hông đối thủ. Sau đó hai con vật lại xoay vòng tròn, sườn sát vào nhau. Lúc này con nào cũng mắt sáng quắc, môi mép co dúm lại. Đến lượt Kazan tấn công và định ngoạm chặt vào yết hầu địch thủ để giết chết nó. Đòn của nó cũng chỉ trượt ra ngoài có một tí, và hai con vật lại tiếp tục quay vòng tròn.

Máu chảy ròng ròng trên hông bị thương của con sói to làm đỏ lòm mặt tuyết. Bất chợt (đây là một mánh lới nó đã học được khi còn nhỏ) Kazan nằm phịch xuống tuyết, mắt lim dim, Con sói to ngạc nhiên, cũng dừng lại và đi vòng quanh nó. Kazan vẫn theo dõi, lợi dụng lúc cổ họng địch thủ đến vừa tầm để đớp vào đó lần nữa. Nhưng lần này, vẫn lại là tiếng hàm bập vào nhau, vô ích. Nhanh như mèo, con sói đã xoay người quay phắt lại.

Thế là cuộc chiến thật sự bắt đầu. Hai con thú nhảy xổ vào nhau, hai bộ ức va nhau khi chúng cùng nhảy chồm vào nhau. Lúc nào cũng nhằm vào cổ họng kẻ địch, Kazan lại cố dùng thủ đoạn ấy. Nó lại hụt lần nữa, chỉ chệch ra ngoài một tí ti và, vừa lúc Kazan chúi đầu xuống, con sói ngoạm luôn vào gáy nó.

Miếng tấn công thật khủng khiếp, Kazan tự cảm thấy rợn cả toàn thân và đau buốt đến tận tuỷ. Tuy vậy nó cũng tìm được cách đẩy được đầu con sói ra phía trước bằng cách ngoạm chặt một chân trước địch thủ của nó, ngay sát chỗ bả vai.

Tiếng xương chân gãy răng rắc dưới hàm răng cắm chắc vào lông, vào thịt, vòng vây lũ sói xem chừng càng chăm chú. Cuộc chiến sắp đến chỗ kết thúc. Trong hai đấu thủ kia, con nào sẽ nhả địch thủ trước và sẽ lăn ra tuyết để bị xé xác?

Chính Kazan, tập trung tất cả sức lực trong một cố gắng tuyệt vọng, đã vùng lên được, và bằng một động tác mạnh phi thường tự giật khỏi hàm răng của địch thủ.

Vừa được tự do, nó liền lao thẳng vào con sói to lúc này vì gãy chân đang đứng ở thế chới với mất thăng bằng. Như một khối nặng, nó thúc vào giữa suờn đối thủ. Con sói lảo đảo, ngả ngữa ra, thế là lập tức bầy sói dữ ào ào nhảy chồm lên người nó, hăm hở xé xác để thoả mãn cơn đói bằng chính thi thể thủ lĩnh mới đây của chúng mà nay quyền uy và sức lực đã không còn.

Mặc cho bầy sói vừa ăn vừa sủa, nanh mép máu me, xé xác phanh thây kẻ bại trận. Kazan lùi ra xa, thở hổn hển, và chính nó cũng rất đau nhức. Nó yếu lắm rồi, đầu óc như đảo lộn. Nó chỉ muốn nằm xoài ra mặt tuyết. Nhưng bản năng sinh tồn di truyền và không bao giờ nhầm lẫn báo trước cho nó chớ nên chiều theo ham muốn đó trong lúc này.

Vừa lúc ấy Kazan thấy một con sói cái xám, uyển chuyển, thon đẹp, tiến đến. Nó bắt đầu nằm xuống trước mặt Kazan, ra vẻ phục tùng, rồi vùng đứng dậy hít hít những vết thương của Kazan.

Đây là một con sói đẹp rất cân đối. Nhưng Kazan không chú ý. Nó còn bận nhìn thi thể con sói đầu đàn biến dần, xương xẩu đang gãy răng rắc như xương con nai, và da thịt cứ từng mảng mất dần.

Một niềm tự hào trào dâng trong lòng, cho thấy rằng từ nay nó rất xứng đáng với bầy anh em mà nó vừa tự tạo được. Từ nay mỗi khi nó cất tiếng sủa với trăng sao giữa cánh đồng mênh mông tuyết trắng, lũ thú săn mồi tối tăm nhanh nhẹn kia sẽ lập tức đáp lại và kéo đến!

Thấy sức khoẻ đã hơi hồi phục, Kazan nhìn bầy sói quây quần lần cuối cùng, rồi thong thả chạy vào khu rừng thông gần nhất. Trước khi đi sâu vào đó, Kazan ngoảnh lại và thấy Sói Xám vẫn đi theo. Từ nay chúng ta gọi tên nó như vậy.

Nó chỉ cách Kazan vài yard và tiếp tục tiến lên, vẻ hơi rụt rè.

Kazan nhìn vào mắt Sói Xám và thấy đôi mắt đỏ như muốn dò hỏi mình. Sói Xám vừa mới lớn. Trên đầu và trên lưng nó, dưới ánh trăng, lấp loáng bộ lông óng mượt. Trong vẻ nhìn long lanh của Kazan, nó thấy Kazan ngạc nhiên. Nó liền rên rỉ một cách thật dịu dàng.

Kazan bước tới mấy bước, gác mõm lên lưng Sói Xám và cảm thấy Sói Xám rùng mình. Trên đầu chúng đêm khuya và trăng sao thật là huyền bí. Lúc này Sói Xám đã quay mõm liếm những vết thương cho Kazan, để làm dịu bớt nỗi đau. Kazan nhớ tới những bàn tay mơn trớn khác trước đây cũng đã từng xoa dịu nó.

Chỉ một lúc sau, Kazan đã hiên ngang, ngẩng cao đầu, dựng đứng lông lưng, song song với Sói Xám, tiến sâu mãi vào khu rừng thông.

---------------------------------------------
---------------------------------------------

(1) Nguyên văn Wilderness : vùng từ Bắc Mỹ trở lên đến Bắc Cực, gồm phần lớn là rừng xen với đồng cỏ. Tại đây rét buốt gần quanh năm, tuyết phủ kín mặt đất; mùa hè ngắn ngủi, cây cối mọc vội và xanh tốt.
 
5,640
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Kazan (Ca-dăng) - James Oliver Curwood

CHƯƠNG VI. TẤN CÔNG XE TRƯỢT TUYẾT

Đêm hôm ấy, đôi bạn yên tĩnh trú ẩn dưới một rừng thông và cây trầm hương um tùm. Mặt đất kín mít những lớp lá kim mà tuyết chưa kịp phủ, tạo thành một tấm đệm êm cho chúng nằm thoải mái. Sói Xám nằm thu cái thân ấm sát vào Kazan, tiếp tục liếm những vết thương cho bạn.

Sáng ra, một trận tuyết dầy, mượt mà đổ xuống, che khuất cảnh vật xung quanh chúng, như một bức màn. Thời tiết dịu hẳn, trong cảnh tĩnh mịch bao la, ngoài tiếng bay vờn của những bong tuyết trắng, tịnh không nghe thấy gì khác. Suốt ngày Kazan và Sói Xám cứ chạy bên nhau. Thỉnh thoảng Kazan ngoảnh đầu nhìn lại cái đỉnh núi nó vừa vượt qua hôm kia, và Sói Xám không sao hiểu nổi những tiếng lạ lùng đang cuồn cuộn trong họng Kazan.

Về chiều, đôi bạn không gặp con mồi nào cả, Kazan liền dẫn Sói Xám đến bên bờ hồ, nơi chắc vẫn còn những mẩu thừa của hai bữa tiệc ngày hôm trước.

Sói Xám chưa hề trực tiếp với những thứ thịt tẩm chất độc, với những thứ mồi mà con người khéo đặt lên các bẫy thép, lên lớp lá của những chiếc hố phản trắc, không nhìn thấy, nhưng bản năng vốn có của Sơn Lâm vẫn ở trong mạch máu, và dạy cho nó là rất nguy hiểm khi chạm vào những loại thịt chết, khi chúng đã nguội lạnh.

Kazan, trái lại, am hiểu hơn Sói Xám. Nó đã từng cùng các ông chủ, đi bên những xác thú vô hại, đồng thời nó đã thấy họ đặt bẫy và nhét những viên thuốc độc vào những thú chết dung làm mồi. Có lần nó còn vô ý giẫm phải bẫy và cảm thấy nhức buốt kinh khủng. Nhưng nó biết là từ hôm qua đến giờ, không có một người nào đến đây, nên nó rủ Sói Xám, vẫn ngồi lì bên bờ hồ, hãy cùng với nó đi đến chỗ những khối băng to mới đóng.

Sói Xám quyết định theo Kazan. Nhưng nó hết sức hoang mang, phải ngồi phịch xuống khi Kazan bới trong lớp tuyết mới để lôi ra những mẩu nai thừa được bảo quản rất tốt. Sói Xám nhất quyết cự tuyệt không động vào thịt. Cuối cùng Kazan không thể thúc được bạn, cũng đâm sợ và làm theo.

Đôi bạn còn nói với nhau rất nhiều điều khác nữa suốt trong những ngày đêm tiếp theo. Đêm thứ ba, Kazan cất tiếng gọi đàn, tập hợp quanh mình cũng cái bầy hôm trước và dẫn đầu buổi săn mồi.

Trong tháng có ba lần gọi đàn như thế, trước khi trăng hạ tuần khuất khỏi bầu trời. Và lần nào nó cũng kiếm được con mồi. Thế rồi Kazan chỉ đi săn với một mình Sói Xám, người bạn đường đã mang lại cho Kazan một cuộc sống ngày càng êm ấm và cả đôi sống bằng thịt thỏ trắng săn được.

Kazan thường cùng Sói Xám trèo lên cái đỉnh núi sừng sững giữa cánh đồng mông mênh mà nó vẫn không rời xa, và nó cố tìm cách giải thích cho Sói Xám biết tất cả những gì mà nó đã để lại phía sau. Tiếng gọi của quá khứ đôi khi mãnh liệt quá, khiến nó thấy khó lòng cưỡng nổi ham muốn trở lại túp lều của Thorpe và lôi kéo theo cả Sói Xám.

Rồi một sự kiện bất ngờ xảy đến. Một hôm, đôi bạn đang lang thang ở chân một dãy núi nhỏ, Kazan chợt trông thấy trên con đường dốc trước mặt một vật khiến tim nó phải ngừng đập. Một người đàn ông với một chiếc xe trượt tuyết cùng đoàn chó kéo, đang đi xuống dốc và tới thế giới của chúng.

Gió thổi ngược chiều nên Kazan và Sói Xám đều không đánh hơi được trước. Kazan chợt trông thấy trong tay người đàn ông một vật lấp lánh trước ánh mặt trời. Nó chẳng lạ gì vật đó, cái vật vẫn khạc ra lửa, ra sấm sét và chết chóc.

Lập tức nó ra hiệu báo nguy cho Sói Xám và cả hai cắm đầu phóng như bay. Nhưng một tiếng nổ đã vang lên và, trong lúc Kazan giận dữ gầm lên nỗi căm hờn trước con người và cái vật mang lại chết chóc, thì một tiếng gió vút qua đầu nó.

Rồi một tiếng nổ thứ hai. Lần này Sói Xám rống lên một tiếng kêu đau đớn, rồi ngã lăn trên mặt tuyết. Nhưng nó đứng dậy ngay và, được Kazan kèm theo bên cạnh, nó chạy tiếp lẩn vào một khu rừng nhỏ. Ở đây nó dừng lại để liếm bên vai bị thương. Còn Kazan thì tiếp tục quan sát.

Người mang súng đã lần theo vết chân chúng. Y đứng ở chỗ Sói Xám ngã và xem xét mặt tuyết. Đoạn y lại đi tiếp.

Kazan lấy mõm đỡ Sói Xám đứng dậy. Chúng phóng thật nhanh và kiếm được môt chỗ ẩn chắc chắn hơn trong đám cây cối rậm rạp bao quanh hồ. Suốt ngày, trong khi Sói Xám nằm dài trên tuyết, Kazan lo canh chừng, lấm lét ngoái lại phía sau để quan sát, và đánh hơi làn gió. Nhưng người kia đã bỏ cuộc.

Hôm sau, Sói Xám chạy khập khiễng. Thám sát kỹ càng tất cả mọi gò, mọi trũng, đôi bạn đến được bên một khu vực cắm trại cũ. Kazan nhe nanh gầm lên nỗi căm thù đối với con người đã ra đi mà còn để mùi lại. Ước muốn được trả thù cho vết thương của Sói Xám mỗi lúc một thêm mãnh liệt. Những vết thương của nó, chưa lành hẳn, khiến nó càng thêm hằn học. Mõm rà sát đất, nó cố tìm dưới lớp tuyết mới, cho ra cái hướng đi của kẻ thù và quên bẵng mất khẩu súng.

Suốt ba hôm liền, mặc dù chân vẫn đau, Sói Xám cùng với Kazan cứ chạy hú hoạ theo hướng trước mặt và vượt được một chặng đường khá xa.

Sang đêm thứ ba, một đêm trăng thượng tuần, Kazan gặp một dấu vết còn mới.

Mới đến mức Kazan đứng sững ngay lại, đột ngột như khi đang chạy bị một viên đạn vào mình. Mọi thớ thịt trong cơ thể nó đều run lên và tất cả lông trên mình đều dựng ngược.

Đây là dấu vết của con người. Có cả vết xe trượt, cả vết chân chó, và cả vết gậy chống của người đi bộ.

Thế là Kazan hướng mõm lên trời sao, và từ cổ họng nó thoát ra, vang xa mãi, khắp vùng Sơn Lâm, cái tiếng gọi bầy man rợ và dữ tợn. Chưa bao giờ tiếng gọi bầy đó, được Kazan lặp lại nhiều lần, lại khủng khiếp rùng rợn đến thế.

Tiếng gọi đã được nghe thấy và đã có một tiếng đáp lại, rồi nhiều tiếng khác nữa. Nhiều đến nỗi Sói Xám cũng ngồi xuống hoà giọng với Kazan.

Xa xa trên đồng tuyết rắng, người đàn ông, mặt tái nhợt và ngơ ngác, dừng lại cùng với đàn chó để lắng nghe, trong khi một giọng nói yếu ớt từ chiếc xe trượt tuyết vọng ra :

- Bố ơi, sói đấy. Chúng có đuổi theo ta không?

Người đàn ông im lặng. ông ta không còn trẻ nữa. Ánh trăng lấp lánh trên bộ râu bạc khiến cho tầm vóc cao to của ông trông như con ma. Trên chiuếc xe trượt, một thiếu phụ nhô đầu lên khỏi một cái gối da gấu. Dưới ánh trăng đôi mắt thiếu phụ sáng nguời. Mặt nàng cũng tái nhợt. Tóc nàng loà xoà trên vai thành một bím dày óng mượt và nàng đang ôm chặt trên ngực một vật gì đấy.

Một lúc sau, người đàn ông đáp :
- Có lẽ chúng đang theo dấu vết của một con nai hay một con tuần lộc nào đó.
Ông đưa mắt nhìn chằm chằm vào quy-lát súng và nói tiếp :
- Gian-ni, con đừng lo! Ta sẽ cắm lều ở rặng cây sắp tới. Ở đó sẽ có khối củi khô để nhóm lửa. Nào, chó! Đi nữa, các bạn. A! A! A! A! Cu-sơ Cu-sơ!
Và tiếng roi bôm bốp rên đàn chó. Từ cái bọc người thiếu phụ ôm chặt trên ngực thoát ra một tiếng kêu thảm thiết, mà hình như những tiếng sói tản mạn đang đáp lại.

Trong khi ấy, Kazan nghĩ bụng sắp được trút hận thù lên một trong những con người đã bao lâu đày đọa nó trong kiếp sống nô lệ. Nó thong thả chạy tiếp, song song với Sói Xám, và cứ ba bốn trăm mét mới dừng chân để cất tiếng gọi đàn.

Chẳng mấy chốc một bóng xám nhảy chồm chồm từ đằng sau đến, nhập với đôi bạn. Một bóng thứ hai. Rồi hai bóng khác, bên phải và bên trái. Giờ đây đáp lại Kazan là tiếng sủa hỗn loạn gồm nhiều giọng khàn khàn của bầy sói vừa được tập hợp. Bầy sói nhiều dần và càng đông thì bước tiến càng nhanh. Bốn, sáu, bảy, mười, mười bốn con.

Bầy sói vừa tập hợp đã kéo vào quãng trống, chỗ cái xe trượt đang chạy và giờ đây gió trời đang thổi lồng lộng. Bầy gồm toàn sói to và khoẻ. Sói Xám nhỏ nhất trong đám thú hùng hổ ấy, mõm nó không chịu rời khỏi vai Kazan.

Bầy sói đã im lặng. Chỉ còn nghe tiếng thở hồng hộc và tiếng chân giẫm nhẹ trên tuyết. Lũ sói chạy rất nhanh, hàng ngũ siết chặt. Kazan luôn dẫn đầu, cách một tầm nhảy, với Sói Xám kề bên vai.

Lần đầu tiên trong đời mình, nó không sợ con người nữa, không sợ sùi cui lẫn roi da, không sợ cả cái vật bí hiểm khạc ra lửa và chết chóc từ xa kia nữa. Và sở dĩ nó chạy nhanh như thế là để sớm chộp được kẻ thù xưa, sớm giao chiến với hắn. Tất cả lòng căm phẫn của nó, bị ức chế suốt bốn năm nô lệ và phí hoài sức lực, đang bùng lên trong mạch máu như những dòng lửa. Và cuối cùng khi nó nhận ra, xa xa, trên cánh đồng tuyết, những chấm đen cử động thì cái tiếng thoát ra từ họng nó nghe khác lạ dị thường, đến mức Sói Xám chẳng hiểu ý nghĩa ra sao cả.

Đàn sói cứ một mạch phóng như bay, hướng vào những chấm đen nhỏ, vào cái sườn gỗ mỏng manh của chiếc xe trượt đang in dáng trên nền tuyết. Nhưng trước khi chúng đến đích, chiếc xe đã dừng lại và thình lình xuất hiện những tia lửa cách quãng, vun vút xuyên vào không trung chẳng khác gì những con ong độc châm chết người, vật mà Kazan vẫn khiếp sợ. Tuy nhiên trong cơn điên máu chỉ muốn cắn giết, Kazan vẫn không chút hốt hoảng, và cả nó, cả bầy anh em, đều không chịu giảm tốc độ.

Bầy ong của thần chết, một con, hai, ba, bốn, năm con cứ vun vút bay như chớp giật. Ba con sói đã lăn lóc trên tuyết, các con khác dạt sang phải, sang trái. Viên đạn thứ hai, lần đầu tiên, trong bóng tối, đã lướt trên mình Kazan từ đầu đến đuôi, rạch một đường thẳng trên bộ lông. Phát đạn cuối cùng, nó cảm thấy cái vật cháy bỏng miết dài trên vai và chích vào da thịt. Nhưng nó bất chấp, cứ tiếp tục lao tới, cùng với Sói Xám luôn luôn trung thành bám sát.

Bầy chó kéo xe đã được tháo bỏ đai cương và, trước khi xông đến sát con người trước mặt, Kazan vấp phải cái khối quyết chiến của chúng. Nó tung hoành như một mãnh hổ, và trong lúc điên cuồng nhe nanh chiến đấu, nó khoẻ bằng hai con sói.

Đã có hai con trong số anh em nó đến góp sức, nhảy vào vòng chiến. Và hai lần nữa, nó lại nghe vang động tiếng súng kinh hoàng, hai lần nữa nó thấy hai bạn ngã lăn ra, lưng gãy gập. Người kia đã quay súng, cầm chặt nòng như một cái dùi gỗ lớn. Trước cái dùi cui vô cùng căm ghét kia, Kazan càng dồn thêm cố gắng. Đó là thứ mà nó đang muốn vồ bằng được.

Tách khỏi bầy sói, nó bất thần nhảy đến tận bên chiếc xe. Mãi bấy giờ nó mới nhận thấy trong xe có một người nữa, quấn trong lớp lông thú. Răng nó cắm sâu vào lớp lông dày.

Chợt một giọng nói, một giọng nói êm ái, khiến nó rùng cả mình. Đúng là giọng nàng, giọng của nàng! Từng thớ thịt trong người nó cứng đờ ra và bản thân nó như hoá đá.

Đồng thời, tấm da gấu mở ra, qua ánh trăng suông, dưới ánh sao mờ, nó nhận rõ người đang nói là ai.

Nó đã lầm. Không phải nàng. Nhưng giọng nói giống hệt giọng nàng. Trong khuôn mặt người đàn bà trắng trẻo, trước đôi con ngươi rực cháy như than hồng kia, dường như có một hình ảnh bí mật của người đã dạy cho nó biết yêu đương trìu mến. Và, trên ngực, cái hình dáng run run kia vẫn ôm chặt một người nữa, nhỏ hơn, đang thốt ra một tiếng kêu đặc biệt, một tiếng oa oa run rẩy.

Nhanh hơn cả lý luận của con người, bản năng của Kazan trỗi dậy. Không đầy một giây, nó quay ngay lại táp mạnh về phía Sói Xám, hung dữ đến mức khiến Sói Xám phải lùi lại, sợ hãi kêu ăng ẳng. Rồi trong lúc người đàn ông loạng choạng với khẩu súng, Kazan đã vút qua trước mặt, lao vào bầy sói còn lại. Dữ tợn hơn cả ban nãy lúc chống cự với đàn chó, giờ đây nó quay lại chiến đấu cùng với đàn chó, với hàng nanh sắc nhọn như dao. Người đàn ông lảo đảo, máu me đầm đìa, vô cùng ngạc nhiên trước sự chuyển biến. Sói Xám cũng đứng về phía Kazan và, tuy không hiểu, trước những tiếng sủa thù địch, cũng cố hết sức mình cắn xé.

Khi cuộc chiến kết thúc, trên cánh đồng tuyết chỉ còn trơ lại Kazan và Sói Xám. Chiếc xe trượt tuyết đã biến mất.

Kazan và Sói Xám đều bị thương, Kazan nặng hơn Sói Xám. Toàn thân nó máu me, rách nát. Một chân bị thương sâu hoắm. Ở bìa rừng có một đám lửa sáng rực. Nhìn thấy đống lửa lòng nó bỗng rạo rực một khát vọng mãnh liệt muốn bò đến đó để được bàn tay người phụ nữ đang ở đó vuốt ve như trước đây nó đã từng được một bàn tay khác vuốt ve. Lẽ ra thì nó lần đến đó để hưởng sự mơn trớn vuốt ve, cố thúc giục Sói Xám cùng theo. Nhưng bên người phụ nữ có một người đàn ông, vì vậy Kazan chỉ biết rên rỉ.

Nó cảm thấy từ nay nó là một kẻ bị ghét bỏ trên đời. Nó đã chống lại các bạn rừng cùng loài với nó; từ nay mỗi lần nó hắt tiếng gọi đàn vào không trung, sẽ không còn một con nào đáp lại và đến nữa. Bầu trời kia, vành trăng kia, ngàn sao kia, và những đống tuyết bao la kia, giờ đây đều chống lại nó. Và với cả con người, nó cũng không dám quay về nữa.

Cùng với Sói Xám nó hướng về phía rừng, đi cho xa đống lửa sáng. Vì đau quá nên vừa vào đến rừng nó phải nằm dài ra đất. Mùi lửa trại tuy vậy vẫn phảng phất đến tận đây. Cố xoa dịu Kazan, Sói Xám âu yếm nằm sát vào bạn, liếm những vết thương rớm máu. Trong khi đó, Kazan ngóc đầu khe khẽ rên rỉ với ngàn sao.
 
5,640
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Kazan (Ca-dăng) - James Oliver Curwood

Chương VII . KAZAN LẠI ĐƯỢC JOAN VUỐT VE

Ở bìa khu rừng thông nhỏ, cụ Pierrerre Radisson, nhà bẫy thú lão luyện, sau khi dựng xong lều, đang lúi húi đóng đạn. Trên người cụ, mười hai vết thương vì nanh sói đang rỉ máu, và hình như trong ngực cụ cũng đang tái phát một vết thương cũ mà chỉ mình cụ mới hiểu hết mức trầm trọng.

Cụ kéo lê từng khúc cây vừa chặt, chất lên đống củi đang cháy, trong khi ngọn lửa bùng bùng qua những cành con còn vướng mắc vào đấy. Rồi cụ thu nhặt thêm ít khúc nữa để dự trữ cho ban đêm.

Ngồi trên chiếc xe trượt, Joan theo dõi những động tác của bố, đôi mắt hãi hùng vẫn mở to, người run bần bật. Nàng vẫn ôm chặt trong lòng đứa con nhỏ, và mớ tóc đen dài của nàng lấp lánh trước ánh lửa. Mặt nàng trẻ quá, ngây thơ quá, không ai ngờ nàng đã là mẹ.

Vứt xong bó củi cuối cùng vào đống lửa, cụ Pierre hổn hển quay lại với Joan, và cất tiếng cười :
- Con yêu quí, chỉ tí nữa - cụ nghẹn ngào nói trong chòm râu bạc – là bố con mình bỏ xác đấy! Ta được trông thấy cái chết gần hơn bao giờ hết. Bố mong rằng trước khi rời khỏi cõi đời sẽ không bao giờ phải thấy nó lần thứ hai. Bây giờ bố con mình đã thoát nạn và đã được ấm áp thoải mái. Con không sợ nữa đấy chứ?

Cụ đến ngồi cạnh Joan và nhẹ nhàng vạch tấm da thú quanh đứa bé. Đôi má hồng hồng xinh xinh hiện ra. Còn đôi mắt của Joan thì lấp lánh như hai vì sao.

- Chính cháu bé đã cứu bố con ta đấy – nàng nói khẽ - lúc ấy bầy sói đã đánh tan đàn chó và đã nhảy xổ vào chúng ta. Thình lình có một con vượt lên trước, tới được bên xe. Thoạt tiên con cứ nghĩ nó là chó của ta. Nhưng không phải, đúng là một con sói! Lần thứ nhất nó định cắn chúng ta. Nhưng răng nó chỉ bập vào tấm da gấu. Nó chồm tới lần nữa, sắp ngoạm vào cổ con thì cháu khóc thét lên. Thế là nó sững ngay lại, chỉ cách ta có một phân, và con có thể cam đoan là chó thật. gần như ngay lúc ấy, nó quay lại chiến đấu bảo vệ chúng ta. Con thấy nó quật ngã một con sói sắp xé xác ta.
- Đúng nó là chó con ạ - Cụ Pierre vừa đáp vừa đưa thẳng tay về phía lửa hơ cho ấm - Thường thường chó vẫn đi khỏi các đồn, rồi nhập bầy với sói. Chính bố đã là nạn nhân khi nghiệm thấy điều đó. Nhưng chó thì suốt đời cứ là chó. Dù sao nó có bị bạc đãi, dù cùng sống với sói,bản chất nguyên sơ của nó vẫn còn mãi. Nó đến để giết ta, nhưng lúc sắp làm việc đó…
- Thì nó trở lại bảo vệ ta, cứu sống ta. Đúng, tội nghiệp con vật – nàng thở dài nói tiếp – đã chiến đấu vì ta. Nó còn bị thương rất nặng. Con thấy nó đi cà nhắc cà nhắc thật đáng thương. Bố ạ, chắc giờ này nó vẫn loanh quanh hấp hối đâu đây thôi.

Nàng thẳng người đứng dậy, thanh tú, mảnh dẻ trước ánh lửa hồng, và vươn vai sau khi trao đứa bé cho cụ Pierre. Nhưng nàng lại phải đón con lại, vì cụ cố ghìm một cơn ho sặc sụa mà không nổi. Joan không trông thấy vệt máu tươi trên môi bố. Nàng không ngờ đã sáu ngày nay, kể từ hôm hai bố con đi trên Đồng Tuyết Trắng, cụ Pierre đã ngầm cảm thấy bệnh tình trầm trọng. Chính vì vậy mà càng ngày cụ càng đi gấp.

- Bố cũng đã nghĩ - cụ nói khi dịu cơn ho - đến con vật đáng thương đó. Bị thương như ta thấy, hẳn là nó không đi xa lắm đâu. Con cứ thức trông cháu và ngồi sưởi bên lửa, chờ bố về. Bố thử đi tìm nó xem.

Cụ quay lại lần theo lối cũ trên cánh đồng trống, đến tận chỗ xảy ra cuộc chiến. Trên mặt tuyết lăn lóc bốn con chó, không con nào sống sót. Máu lênh láng trên tuyết, xác chúng đã cứng đờ. Pierre nhìn mà lạnh cả người. Nếu chúng không chặn đứng cuộc tấn công đầu tiên của bầy sói, thì đã ra sao đời cụ, đời Joan, đời cháu bé? Cụ ngoảnh mặt đi rồi lại tiếp tục tìm kiếm; một cơn ho khác lại nhuốm máu hồng lên đôi môi cụ.

Sau khi quan sát kỹ mặt tuyết, cụ nhận ra dấu chân của vị cứu tinh bí mật. Không phải chỉ là vết chân, mà là một đường cày dài. Cụ liền lần theo, tin chắc sẽ gặp con vật chết ở cuối đường cày.

Thế là cụ trở lại cửa rừng, ở đây cụ gặp Kazan nằm dài trên mặt đất, mắt mở to, tai vểnh thẳng, kiệt sức đến mức không đứng lên nổi tuy không đau lắm. Nó như liệt hẳn, Sói Xám nằm ngay bên cạnh.

Nằm tại chỗ ẩn nấp này, cả hai vẫn không ngừng quan sát, qua những cành thông thưa thớt, đống lửa đang lùng bùng hắt ánh đến tận đây. Chúng hít hít làn không khí đêm khuya và biết rằng ở đấy đang có hai con người. Kazan vẫn khao khát đến bên đống lửa ấy, kéo theo cả Sói Xám, trở về với người phụ nữ và bàn tay vuốt ve của nàng. Nó cũng vẫn sợ người đàn ông đi kèm người phụ nữ kia, vì đối với nó đàn ông luôn luôn đồng nghĩa với dùi cui, roi da, đau đớn và chết chóc.

Còn Sói Xám thì nhẹ nhàng hẩy hẩy Kazan, thúc nó cùng chạy trốn xa đống lửa hơn nữa và sâu vào rừng hơn nữa. Biết Kazan không tài nào theo được mình, nó cứ lồng lộn loanh quanh, định trốn một mình mà mãi không sao quyết định được. Mặt tuyết chung quah chỗ chúng nằm hằn rõ toàn dấu chân nó. Nhưng bản năng giới tính của nó luôn luôn mạnh hơn và mỗi lần định đi, nó lại quay về với Kazan.

Chính Sói Xám trông thấy cụ Pierre trước tiên khi cụ lần theo dấu chân đi tới. Được bạn báo hiệu bằng tiếng gầm gừ, Kazan nhận thấy cái bóng đen đang xăm xăm bước dưới ánh sao. Động tác đầu tiên của nó là chạy trốn và cố lê giật lùi.

Nhưng Kazan chỉ nhích được có vài phân trong khi người kia tiến rất nhanh đến gần, trên tay lấp lánh cái nòng súng. Nó nghe thấy tiếng ho khan và tiếng chân kin kít trên tuyết.

Sói Xám thoạt đầu còn nằm sát vào Kazan, run rẩy và nghiến răng kèn kẹt. Rồi, khi cụ Pierre chỉ còn cách có vài bước, bản năng sinh tồn đã thắng, nó liền lẳng lặng lẩn mất vào khu rừng thông.

Nanh Kazan nhe cả ra, nom thật dễ sợ, còn cụ Pierre thì cứ sấn tới, rồi dừng lại nhìn nó chằm chằm. Một lần nữa nó cố lê chân. Nhưng sức đã kiệt, nó ngã kềnh ra tuyết.

Cụ già bỏ súng xuống, dựng vào một gốc thông con và cúi xuống con vật, không tỏ vẻ sợ sệt tí nào. Kazan gừ lên một tiếng dữ tợn định táp vào bàn tay chìa ra.

Nó ngạc nhiên quá, người đàn ông không nhặt lấy gậy, lấy dùi. Trái lại y vẫn chìa tay ra với nó, lần này có dè dặt hơn và nói bằng một giọng không có vẻ gì là cứng cỏi. Tuy vậy, Kazan vẫn bầm bập hàm răng và gầm gừ.

Người kia vẫn kiên trì với nó. Bàn tay đeo găng một ngón của y còn chạm cả vào đầu nó, rồi rụt lại khá nhanh để tránh khỏi hàm răng. Ba lần liền. Kazan cảm thấy chiếc găng chạm vào mình,. Mà không đau đớn, không có vẻ gì là doạ dẫm cả. Sau đó người kia quay gót và lại đi.

Lúc cụ Pierre đã đi xa, Kazan mới tru lên một tiếng thảm thiết và lớp lông dựng đứng trên lưng lại rạp xuống. Nó háo hức nhìn về phía ánh lửa. Người kia không làm nó đau đớn tí nào. Ước gì có thể chạy theo người đó.

Sói Xám, từ nãy vẫn không đi xa, thấy Kazan vẫn nằm một mình, liền quay về đứng sững trước mặt.

Đây là lần đầu tiên, trừ lúc tấn công vào cái xe trượt tuyết, nó được gần gũi con người. Nó không hiểu nổi sự việc vừa qua. Tất cả bản năng báo với nó rằng trên đời này con người là kẻ nguy hiểm nhất, phải e sợ hơn cả những con thú khoẻ nhất, hơn cả bão táp, nước lụt, đói khát và rét mướt. Thế mà con người vừa mới đứng kia lại không làm gì Kazan. Nó hít ngửi suốt lưng và đầu bạn, nơi chiếc găng chạm vào. Rồi một lần nữa, nó lại lao biến vào cánh rừng âm u. Vì nó nhìn thấy, ở rìa cánh đồng những dấu hiệu đáng ngờ đang tái diễn.

Người đàn ông quay trở lại, cùng đi với thiếu phụ. Lúc nàng đến gần, một lần nữa Kazan lại nghe một giọng dịu dàng êm ái, và nó cảm thấy như từ người nàng đang toát lên một cái gì âu yếm thân thương. Còn người đàn ông thì đang đứng giữa thế đề phòng điều bất trắc nhưng không có gì đáng ngại.

Y căn dặn người thiếu phụ :
- Joan, phải coi chừng đấy!
Nàng quì trên tuyết, trước mặt con vật, ngoài tầm nanh của nó. Rồi nàng trìu mến nói :
- Đi nào, con! Nào đi chứ!
Nàng chìa bàn tay cho Kazan.
Các bắp thịt Kazan co lại. Nó bò được một bước, hai bước về phía nàng.

Trong đôi mắt đang nhìn nó, Kazan lại bắt gặp cái ánh mắt trước đây, với tất cả tấm tình yêu thương độ lượng vỗ về mà trước đâuy nó đã từng hưởng, khi một người đàn bà khác, với mái tóc cũng xinh đẹp như thế, với đôi mắt cũng long lanh như thế, đi vào cuộc đời nó. “Đến đây”, nàng khẽ nói, trong lúc nó cố tiến lên.

Nàng cũng tiến tới một ít và duỗi thẳng tay ra thêm đặt lên đầu nó. Cụ Pierre cũng bắt chước quì xuống cạnh Joan. Cụ cho nó một vật gì đó, và Kazan đánh hơi thấy mùi thịt. Nhưng chính bàn tay Joan mới là thứ nó quan tâm. Được bàn tay vuốt ve mơn trớn, nó rùng mình và như run lên. Khi Joan đứng dậy, vỗ về nó đi theo, nó liền tập trung tất cả sức lực nhưng không tài nào vâng lời được. Mãi lúc ấy Joan mới nhận thấy tình trạng đáng thương ở một chân nó. Quên mất hết dè dặt, nàng đến sát bên Kazan.

- Nó không đi được! Bố ơi, bố nhìn xem! – Nàng thốt lên, giọng run run - Bố xem vết thương sâu chưa bày! Ta phải khiêng nó thôi.
- Bố đã nghĩ đến chutện ấy - Cụ Pierre đáp – Cho nên bố mới đem cái chăn này theo.

Đúng lúc ấy, từ phía rừng âm u vọng lên một tiếng kêu khản đặc, một tiếng kêu rên thảm thiết.

- Trời ơi! Joan! - cụ Pierre nói – Con nghe xem.

Kazan ngóc đầu lên và nấc một tiếng rất thương tâm, đáp lại tiếng kêu nhớ nhung đang vang vọng. Sói Xám đang gọi nó.

Hai bố con Joan quấn Kazan vào chăn rồi mỗi người một đầu, khiêng con vật què về tận chỗ cắm trại. Kể cũng thật kỳ diệu, công việc vẫn tiến hành mà con vật chẳng chống lại tí nào, không cào, không cắn.

Kazan được đặt nằm bên đống lửa và, một lúc sau lại chính người đàn ông đưa nước ấm đến bên nó để rửa vết thương ở chân, để chùi chỗ máu đông đặc rồi bôi lên một thứ gì rất êm dịu, và cuối cùng buộc toàn bộ với một đoạn băng vải.

Rồi lại chính người đàn ông chìa cho nó một cái bánh rất ngon, làm bằng bột và mỡ, và dỗ cho nó ăn, trong lúc Joan ngồi trước mặt, hai tay chống cằm và nói với con vật. Sau đó, cảm thấy hoàn toàn khoẻ khoắn, nó không còn sợ gì nữa.

Một tiếng kêu khe khẽ, rất lạ lùng, thoát ra từ cái bọc lông thú để trên xe, khiến Kazan phải ngóc dần đầu lên, giật giật do dự. Joan trông thấy động tác đó và nghe tiếng gừ gừ cuồn cuộn trong họng nó. Nàng vội chạy đến bên cái bọc, nói nựng thật trìu mến rồi ôm lên, vạch tấm long mèo rừng ra cho Kazan thấy. Kazan chưa bao giờ được thấy trẻ con gần đến thế. Joan chìa em bé ra cho Kazan, để nó nhìn thật sát và chiêm ngưỡng sinh vật bé nhỏ kỳ diệu đó. Khuôn mặt hồng hồng có vẻ nhìn chằm chằm con chó, hai bàn tay nhỏ xíu chìa ra, và một tiếng ăng ẳng chào đón em. Rồi thình lình, cả cái thân hình nhỏ bé kia rung lên, và như một chuỗi cười bật ra. Kazan yên tâm, duỗi thẳng mình, lết đến bên chân hai mẹ con.

- Bố xem! – Joan thốt lên – Nó đã biết quí cháu bé rồi kìa. Ôi! Con vật lành quá! Phải đặt tên ngay cho nó thôi. Nhưng biết chọn tên gì?
- Mai ta sẽ tha hồ chọn. Bây giờ khuya rồi. Con vào lều mà ngủ đi. Ngày mai sẽ vất vả đấy. Bây giờ không còn con chó nào, ta phải tự lực kéo lấy xe đấy.

Joan định chui vào lều, nhưng còn dừng lại nói :
- Nó đến với sói. Ta gọi nó là Lu (1) vậy.

Một tay ẵm con, một tay chìa ra cho Kazan, nàng vừa nhắc đi nhắc lại :
- Lu, Lu, Lu!

Mắt Kazan vẫn không rời khỏi Joan. Nó biết nàng nói với nó, nên nhẹ nhàng bò đến với nàng.

Joan đã vào lều ngủ từ lâu mà cụ Pierre Rx vẫn ở ngoài canh chừng, ngồi trước đống lửa, trên thành xe, cùng với Kazan nằm dưới chân.

Thình lình cảnh tĩnh mịch bị phá tan bởi tiếng tru cô độc của Sói Xám, Kazan ngóc đầu lên và lại rên rỉ.
- Nó gọi con đấy! - cụ Pierre hiểu ý, nói.

Cụ lại ho, bàn tay áp lên lồng ngực tưởng như bị cơn đau xé ra. Rồi cụ nói với Kazan :

- Phổi bị rét ăn ruỗng đấy, thấy không. Bị hồi đầu mùa đông, phía hồ đằng kia. Tao chỉ mong về kịp đến nhà với mẹ con Joan thôi.

Đấy là thói quen nói một mình của cụ, trong cảnh cô đơn hoang vắng của Sơn Lâm. Nhưng với đôi mắt long lánh tinh khôn, Kazan là một người tiếp chuyện thật là đúng dịp. Cho nên cụ Pierre lại nói với nó :

- Chú mình ơi, chúng ta phải đưa mẹ con nó về bằng mọi giá - cụ tiếp tục, tay vân vê chòm râu - việc đó, một mình chú, với ta, chúng ta làm được.

Một cơn ho khan lại rung chuyển cả người cụ. Cụ thở không ra hơi, ôm chặt lấy ngực, nói tiếp :
- Nhà ở cách đấy năm mươi dặm, ta cầu trời có thể về được đến nơi an toàn, và hai lá phổi không bỏ rơi ta trước khi đến nơi.

Cụ đứng lên loạng choạng, đi đến cạnh Kazan. Cụ buộc nó vào sau xe, vứt thêm ít cành cây vào đống lửa, rồi chui vào lều, nơi mẹ con Joan đang ngủ.

Đêm hôm ấy, ba bốn lần Kazan nghe tiếng Sói Xám gọi người bạn đường đã mất. Nhưng Kazan hiểu là không nên đáp lại nữa. Quãng hừng đông, Sói Xám đến khá gần lều, cất tiếng gọi nữa, và lần đầu tiên, Kazan đáp lại bạn.

Tiếng rống của Kazan thức tỉnh cụ già. Cụ bước ra khỏi lều, nhìn bầu trời đang hửng sáng. Cụ chất thêm củi và chuẩn bị bữa điểm tâm.

--------------------
--------------------
(1) Tiếng Pháp nghĩa là sói.
 
5,640
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Kazan (Ca-dăng) - James Oliver Curwood

Chương VIII. DẤU HIỆU CỦA THẦN CHẾT

Cụ Pierre vuốt ve đầu Kazan và cho nó một miếng thịt. Lát sau Joan cũng bước ra, để yên cho cháu bé ngủ thêm. Nàng chạy đến hôn bố rồi, quì xuống trước mặt Kazan, nàng lại bắt đầu nói với nó, với giọng nàng đã nói với con.

Khi Joan đứng dậy, duyên dáng, nhảy đến giúp bố, Kazan cũng đi theo. Thấy Kazan bây giờ đã gần đứng vững, Joan mừng quá reo lên.

Hôm ấy bắt đầu một cuộc hành trình đặc biệt. Thoạt tiên cụ Pierre bỏ hết đồ đạc trong xe ra, chỉ để lại cái lều gấp gọn, chắn, thức ăn và cái ổ ấm bằng lông thú cho Joan. Rồi cụ quàng lên vai một sợi dây cương và gò lưng kéo cái xe trên tuyết. Kazan vẫn bị buộc, lững thững theo sau.

Cụ Pue không ngừng ho và khạc ra huyết. Joan hết sức lo ngiại.
- Bố bị cảm lạnh, chứ không sao cả - cụ Pierre nói - Về nhà bố cứ ở trong nhà đủ một tuần là hết thôi.

Cụ nói dối. Mỗi lần ho, cụ lại ngoảnh mặt đi, lau vội mồm và râu, không để Joan trông thấy những vệt đỏ.

Joan chẳng nghĩ ngợi gì cả và có ngờ đâu bố lại giấu mình. Nhưng Kazan, với cái tri thức kì lại của thú vật, mà con người không giải thích nổi vẫn gọi là bản năng, nếu biết nói, thì nó đã nói rõ ra cái điều cụ Pierre Radisson giấu.

Nó đã từng nghe nhiều người ho như thế, tổ tiên chó của nó cũng đã từng nghe khi kéo những chiếc xe trượt, và trong trí óc, nó tin chắc là điều bất hạnh nhất định sẽ xảy ra.

Đã bao lần, tuy không vào, nó cũng đánh hơi được cái chết trong những lều người da đỏ và trong những chòi gỗ người da trắng. Cũng như khi đoán được bão táp và lửa cháy từ xa, nhiều khi nó đã đánh hơi được mùi chết, mặc dầu cái chết chỉ mới lảng vảng xung quanh những con người sắp lìa đời. Và trong khi nó theo xe, sau lưng cụ Pierre, thì dấu hiệu của thần chết như lởn vởn trên không, dường như nói với nó rằng cái chết đã gần rồi, rằng trên mỗi bước đi cái chết có thể đến với cụ Pierre bất cứ lúc nào.

Kazan ở trong một trạng thái bứt rứt lạ lùng, khác thường. Mỗi lần chiếc xe dừng nghỉ, nó lại bồn chồn đến hít chú bé sơ sinh được phủ kín trong tấm lông mèo rừng. Joan vội chạy ngay đến để dè chừng con vật, và vuốt vuốt cái đầu lông xám của nó. Thế là nó cảm thấy yên tâm, và trong thâm tâm nó cảm thấy vui vui một niềm hân hoan thầm kín. Điều quan trọng duy nhất mà Kazan hiểu được một cách rõ ràng, trong ngày đầu tiên ấy, là người thiếu phụ rất quí chú bé trong xe vì nàng luôn luôn nâng niu và ngọt ngào hỏi chuyện chú. Nó càng quan tâm thích thú chú bé bao nhiêu thì người thiếu phụ càng như bằng lòng sung sướng bấy nhiêu.

Tối đến, lều lại được dựng lên như thường lệ và cụ Pierre lại ngồi khá lâu bên đống lửa. Nhưng cụ không hút thuốc. Cụ nhìn đăm đăm vào ngọn lửa. Cuối cùng, lúc quyết định vào lều với Joan, cụ liền cúi xuống xem xét những vết thương của Kazan.

- Khá rồi con ạ, con đã khoẻ nhiều. Đến mai con phải quàng đai giúp ta. Chiều mai mình phải đến được sông. Nếu không…

Cụ không nói hết câu và cố nén cơn ho xé ngực, rồi bước vào lều.

Kazan nằm một mình, cảnh giác vểnh tai, mắt đầy lo ngại. Nó không muốn cụ Pierre chui vào lều. Vì hơn bao giờ hết, cái chết bí hiểm hình như đang lởn vởn quanh con người kia.

Đêm hôm ấy, ba lần nó nghe tiếng Sói Xám gọi và không thể nào không đáp lại. Như hôm qua vào lúc hừng đông, Sói Xám đã quay lại, đến gần chỗ cắm trại, Kazan giằng mãi dây và khóc lóc, hy vọng người bạn đường thương hại, đến nằm bên cạnh mình. Nhưng lúc này, trong lều cụ Pierre đã cựa quậy và lên tiếng, Sói Xám, đang định liều, vội chạy trốn mất.

Sáng hôm sau, mặt cụ già càng hóp sâu và đôi mắt càng đỏ ngầu. Ho có giảm phần dữ dội. Chỉ nghe như tiếng khò khè bên trong báo hiệu một sự tan rã của cơ thể. Và lúc nào cụ Pierre cũng đưa hai bàn tay lên ngực.

Tinh mơ, khi trông thấy bố, Joan tái cả mặt. Trong mắt nàng không phải lo lắng nữa mà là sự kinh hoàng. Nàng vội ôm choàng lấy cổ bố khiến cụ phải cười to và càng ho mạnh, để chứng tỏ là đôi lá phổi trong lồng ngực của mình còn tốt.

- Bố sắp khỏi rồi - cụ nói – con thấy đấy. Cảm đã qua. Nhưng con ạ, như bố con ta đều biết, sau đó bao giờ sức khoẻ cũng giảm sút nhiều và mắt cũng đỏ.

Ngày tiếp theo lạnh lẽo ảm đạm, gần như không có ánh sáng. Cụ Pierre và Kazan cùng kéo chung chiếc xe. Joan đi bộ bước theo sau, giẫm đúng lên dấu chân đi trước. Kazan cố hết sức kéo không nghỉ, và cụ Pierre không phải dùng đến roi da. Nhưng chốc chốc cụ lại thân ái vuốt chiếc găng một ngón lên đầu và lưng nó. Trời mỗi lúc một tối sầm, trên các ngọn cây tiếng rít vi vu báo hiệu sắp có bão.

Mặc trời tối, mặc bão tuyết đến gần, cụ Pierre vẫn không chịu dừng lại cắm lều.

- Bằng giá nào - cụ lẩm bẩm một mình – cũng phải đến được sông, đúng thế, bằng bất cứ giá nào…

Cụ thúc Kazan để nó nỗ lực cố gắng, còn cụ thì cảm thấy sức lực mình suy sụp dần dần dưới bộ đai cương.

Bão tuyết đã nổi lên khi cụ Pierre dừng lại vào lúc giữa trưa để đốt lửa cho tất cả sưởi ấm một tí. Từ trên trời, tuyết đổ xuống như một trận hồng thuỷ trắng dày đến mức cách năm mươi bước chẳng còn nhìn thấy gì nữa. Joan ngồi thu lu, run cầm cập, bên cạnh bố, hai tay ôm chặt lấy con. Để cho nàng vững dạ, cụ Pierre làm ra vẻ rất vui, cười cười nói nói. Nghỉ ngơi được một tiếng, cụ lại thắng đai cương vào Kazan và cũng lấy đai buộc quanh mình như nó, vì quàng vào ngực đau quá.

Trời gần như tối mịt, bốn bề vắng lặng như tờ, đoàn lữ khách, vẫn thất thểu trong rừng, tiến bước một cách khó nhọc. Cụ Pierre luôn luôn nhìn vào la bàn cầm tay.

Xế chiều đã lâu, cây cối thưa dần và một cánh đồng khác bỗng hiện ra phía dưới. Cụ Pierre mừng rỡ đưa ngón tay trỏ về phía ấy. Nhưng giọng cụ yếu đi và khản đặc, lúc cụ nói với Joan :
- Giờ thì ra có thể cắm trại lại đây, chờ cho tan cơn bão tuyết.

Cụ căng lều dưới một rặng thông um tùm cuối cùng rồi nhặt củi để đốt lửa. Joan phụ với bố. Ăn xong bữa ăn có thịt rán, bánh bít-cốt và đun cà phê uống,, Joan mệt lử nằm lăn ra trên lớp cành thông cùng với đứa con quấn chặt trong mấy cái chăn và da thú. Tối hôm ấy, nàng không đủ sức nói với Kazan vài lời âu yếm nữa.

Cụ Pierre vẫn ngồi trên xe một lúc nữa, im lặng thức canh chừng bên đống lửa, chợt đôi mắt tinh nhanh của Kazan trong thấy cụ rùng mình, rồi đứng lên đi về phía lều. Cụ vạch tấm vài lều ra, thò đầu và vai vào trong.

- Con ngủ đấy à, Joan?
- Chưa bố ạ … Nhưng cũng sắp … Bố sắp vào chứ?
- Ờ, bố hút xong điếu thuốc đã. Con thấy người có khoẻ không?
- Không sao … bố ạ. Chỉ nhọc quá thôi… và buồn ngủ lắm!

Cụ Pierre cười âu yếm, trong khi cổ họng ngứa quá thể.

- Joan này, nghe bố nói đây. Ta đã về gần đến nhà rồi. Con sông vùng ta, sông Hải Ly, chảy ở cuối cánh đồng trước mặt. Nếu bố có mệnh hệ nào, và nếu mai, bố giả dụ thế thôi, con chỉ còn lại một mình, thì con cứ đi thẳng là đến chòi nhà mình. Không hơn mười lăm dặm đâu. Con nghe rõ bố nói đấy chứ?

- Thưa bố vâng ạ… Nhưng bố vào ngủ đi, con van bố. Bố mệt lắm rồi… Bố cũng hơi ốm đấy.

- Bố kéo nốt tẩu thuốc – và cụ nhấn mạnh – Joan này, bố dặn con phải đặc biệt lưu ý đến những túi không khí, bên dưới tuyết ấy. Dưới đó hoàn toàn là chân không thôi. Chú ý một tí là đoán thấy dễ dàng. Chỗ nào có chúng thì màu tuyết trắng hơn những chỗ khác của băng, và nom nó lỗ chỗ như cao su xốp.

- Vâ…âng…

Cụ Pierre quay ra, đến bên đống lửa và Kazan

- Ngủ ngon, nhé con - cụ nói - Nằm bên con, bên cháu, ta thấy dễ chịu hơn. Thôi còn một ngày nữa. Mười lăm dặm nữa…

Kazan thấy cụ chui vào lều. Nó lồng lộn giật thật mạnh sợi xích, đến nỗi tắc cả thở. Chân nó, lưng nó co dúm cả lại. Trong lều có Joan và chú bé. Nó biết cụ Pierre không làm gì hại đến hai mẹ con nàng. Nhưng nó cũng biết là cùng với cụ, một cái gì thảm khốc và không tránh khỏi đang ở bên cạnh mẹ con nàng. Nó chỉ muốn cụ già cứ ở bên đống lửa. Như thế, nó có thể nằm dài trên tuyết vừa ngủ yên, vừa quan sát cụ.

Trong lều im phăng phắc.

Tiếng Sói Xám lại vẳng lên, gần hơn hôm qua. Hơn cả những đêm khác, Kazan chỉ những ước ao có Sói Xám nằm bên cạnh mình. Nhưng nó cố im tiếng, không đáp lại. Nó không dám phá tan cái không khí tĩnh mịch trong lều. Rã rời và đau như dần vì chặng đường trong ngày, với những vết thương tái phát, nó nằm xoài trên tuyết khá lâu mà không buồn ngủ.

Quãng nửa đêm, ngọn lửa tắt. Trên các ngọn cây, gió đã lặng. Những đám mây mờ đục vẫn che kín bầu trời, cuộn thành những mớ dầy, như một tấm màn màu kim khí mờ nhạt. Xa xa, phía chòm sao thất tinh, vẳng đến một tiếng sắc nhọn, đơn điệu y hệt tiếng một điệu nhạc trời huyền bí, du dương của bình minh Bắc cực. Đồng thời rét buốt hơn và nhiệt kế không ngừng tụt xuống rất nhanh. Đêm hôm ấy Sói Xám, không chỉ dựa vào khứu giác, đã táo bạo lần mò như một cái bóng theo vết chiếc xe.

Và giọng Sói Xám lại vọng đến tai Kazan.

Sói Xám đã dừng lại, cứng đờ và run rẩy, bốn chân run bần bật, gửi qua khọng trung cái tin thảm khốc. Nhận được tin, lập tức Kazan cũng cất tiếng tru lên như một con chó rừng miền bắc, trước chiều lều thổ dân da đỏ, nơi chủ chúng vừa hắt hơi thở cuối cùng.

Cụ Pierre Radisson đã giã biệt cõi trần.
 
5,640
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Kazan (Ca-dăng) - James Oliver Curwood

CHƯƠNG IX. TRÊN DÒNG SÔNG ĐÓNG BĂNG


Trời vừa hừng sáng, thì cũng đúng lúc đứa bé ôm chặt lấy lồng ngực ấm áp của mẹ và đòi ăn.

Joan tỉnh dậy, mở mắt, vén làn tóc rối lên và để ý trước tiên đến cái bóng đen của cụ Pierre Radisson đang nằm như ngủ.

Nàng lấy thế làm sung sướng vì nàng biết ngày hôm qua bố kiệt quệ như thế nào. Để khỏi phá giấc ngủ của bố, nàng cũng nằm im trên giường nửa giờ nữa, vừa khe khẽ ru con.

Cuối cùng nàng quyết định rón rén dậy, ủ kỹ con vào chăn và lông thú rồi, mặc chiếc áo dầy, mở lều đi.

Trời lúc này đã sáng hẳn, nàng sung sướng nhận thấy gió đã lặng. Bầu trời lắng dịu, nhưng ngược lại rét buốt kinh khủng và như cắn xé da mặt.

Bên ngoài, lửa đã tắt, Kazan vẫn cuộn tròn bên đống tro lạnh, mõm rúc vào dưới ngực. Lúc Joan xuất hiện, nó ngóc đầu lên nhìn và vẫn run bần bật. Nàng đưa bàn chân dận dôi giày nặng chịch, gẩy gẩy đống tro và những mẩu củi đen sì. Không còn tí than hồng nào. Nàng cúi xuống vuốt ve cái đầu xù lông của Kazan.

- Tội nghiệp Lu của cô quá! Đáng lẽ cô phải để một tấm da gấu cho chú mình ấm! – Nói xong nàng trở vào lều.

Nàng hất tấm cửa bạt ra và gương mặt tái nhợt của bố hiện rõ trong ánh sáng. Kazan chợt nghe một tiếng kêu thảm thiết như xé ruột. Quả là không còn nghi ngờ gì nữa về cụ Pierre Radisson.

Joan nhảy bổ đến ôm lấy ngực bố, thổn thức nghẹn ngào, đến nỗi tai Kazan thính thế mà cũng không nghe thấy gì. Nàng nằm đấy, chìm ngập trong đau thương, mãi cho đến lúc tiếng khóc thảm thiết của con làm nàng giật mình, và nghị lực của người mẹ lại trở dậy.

Lúc này không phải để khóc, mà phải hành động. Nàng đứng ngay dậy chạy ra ngoài. Kazan kéo cái xích muốn nhảy đến với nàng, nhưng nàng không để ý.

Cảnh cô đơn còn hãi hùng hơn cái chết. Trong phút giây, nàng đã nhận thức ra điều đó. Và nỗi sợ trước mắt đối với nàng không đáng kể, nàng hoàn toàn thuộc về con.

Tiếng khóc của đứa bé bất hạnh, từ trong lều vọng ra như những mũi dao nhọn đâm vào tim nàng.

Nàng chợt nhớ lại tất cả những điều cụ Pierre dặn đêm qua : con sông phải đi đến bằng được, những túi không khí trên băng phái tránh, chòi cách đây mười lăm dặm… “Joan ạ, con không thể lạc được đâu”. Cụ đã nhấn mạnh thế. Hẳn cụ đã đoán trước được việc gì sẽ xảy ra.

Thoạt tiên nàng quay lại chỗ đống lửa đã tắt ngấm vì cần phải nhóm lửa lên ngay. Nàng nhặt nhạnh trên tuyết những vỏ dương khô, chất thành đống nhỏ, lẫn với những mẩu củi đen chưa cháy nốt. Rồi nàng chạy vào lều lấy diêm.

Cụ Pierre vẫn cất diêm trong một hộp kín, để ở túi trong của cái áo da gấu. Quì trước thi hài bố tìm hộp diêm, Joan lại nức nở khóc.

Tìm được diêm, nàng đánh cho ngọn lửa bùng lên và lấy ít củi khô cụ Pierre vẫn dự trữ chất vào. Ngọn lửa ấm áp lại khiến nàng phấn chấn và can đảm. Mười lăm dặm… con sông dẫn đến chòi…. Nàng phải đi trọn quãng đường ấy với con và Lu.

Nàng nghĩ đến việc chăm sóc cho con chó. Nàng lấy một miếng thịt hơ lên lửa cho tan giá rồi cho Kazan ăn, đoạn đun chảy một ít tuyết để pha trà uống. Nàng không đói và không muốn ăn. Nhưng nàng nhớ là bố nàng vẫn ép phải ăn năm sáu bữa một ngày, dù ăn ít, để khỏi bị mất sức. Nàng đánh cố ăn một chiếc bánh quy, một khoanh bánh mì, và uống một ít trà nóng.

Giờ phút khủng khiếp đã đến. Joan lấy chăn quấn chặt người cụ Pierre Radisson và lấy một sợi dây da buộc lại.

Đoạn nàng xếp lên chiếc xe, cạnh đống lửa, số chăn và da thú còn lại, tạo thành một cái giường thật êm cho con nằm, và bắt đầu tháo dỡ lều. Đối với phụ nữ công việc này không phải là dễ vì dây vừa lạnh vừa cứng. Làm xong thì một tay rớm máu. Nàng buộc lều vào sau xe.

Cụ Pierre Radisson nằm trên lớp lá xanh. Bên trên cụ chỉ có bầu trời mờ xám và vòm thông đen thẫm.

Kazan co rúm bốn chân, hít hít không khí. Lông lưng nó dựng đứng cả lên, lúc thiếu phụ thong thả đi đến cái vật bất động buộc chặt trong chăn. Nàng quỳ xuống cầu nguyện.

Lúc này quay lại cái xe, mặt nàng tái nhợt và đầm đìa nước mắt. nàng nhìn hồi lâu về phía vùng Ba-ren ảm đạm, trải dài tít tắp trước mặt. Đoạn nàng cúi xuống con chó sói, thắng đai cương vào cho nó và cũng quấn quanh mình sợi dây cương của bố trước đây, rồi cả hai cùng kéo.

Joan và Kazan cứ đi như thế, theo hướng cụ Pierre dặn. Cuộc hành trình thật là vất vả, chậm chạp, trên lớp tuyết mềm mới rơi tối hôm qua và nhiều chỗ lại bị gió dồn lên, thành đống xôm xốp.

Có lần Joan hụt chân quỵ xuống trên một đống tuyết. Lúc ngã, nàng để rơi mất mũ lông, nên tóc sổ ra xoã cả xuống tuyết. Lập tức Kazan chạy đến, lấy mõm chạm vào mặt nàng.

- Lu, Lu – nàng rên rỉ - Lu, Lu!

Nàng cố đứng dậy, và đoàn xe lèo tèo lại tiếp tục tiến bước.

Cuối cùng con sông đã ở trước mặt và chiếc xe cũng đỡ vất vả trên mặt sông vì ở đây tuyết đã đỡ dày. Nhưng một cơn gió mạnh từ đông bắc thổi về, thốc thẳng vào mặt, khiến Joan vừa phải cúi đầu vừa kéo Kazan. Đi được nửa dặm, nàng phải dừng chân, hơi thở muốn đứt, một nỗi thất vọng lại tràn dâng trong lòng.

Tiếng thổn thức dồn lên môi. Mười lăm dặm! Hai bàn tay co quắp trên ngực,và lưng còng xuống như người bị đánh, nàng ngoảnh đầu tránh ngọn gió thốc, để lấy lại hơi sức. Trên xe nàng cảm thấy con vẫn ngủ yên lành trong lớp da thú. Cảnh tượng đó lại cay nghiệt thúc đẩy nàng, khiến nàng lại càng phải cố gắng phấn đấu.

Nàng còn quỵ hai lần nữa trên những đống tuyết. Cuối cùng đến được một chỗ nhẵn, tuyết bị gió quét sạch. Kazan đủ sức kéo một mình.

Joan bước bên cạnh con chó sói. Nàng cảm thấy như có hàng nghìn mũi kim châm vào da mặt, và bất chấp lớp quần áo nặng chịch, xuyên thấu vào tận ngực. Nàng nảy ra ý xem nhiệt và lục hành lý lấy nó ra. Để nhiệt kế ra ngoài trời một lúc, nàng nhìn thấy ba mươi độ âm. (1)

Mười lăm dặm! Thế mà bố nàng lại cam đoan là nàng có thể đi trọn quãng đường không có gì khó khăn. Nhưng chắc chắn cụ Pierre Radisson không dự kiến đến cái rét cắt thịt, kinh khủng này, và ngọn gió ác nghiệt mà cả những người dũng cảm nhất cũng phải kinh hãi.

Cánh rừng lúc này đã xa dần về phía sau, trong cảnh tranh tối tranh sáng của lớp sương mù nhợt nhạt. Bốn bề chỉ còn một vùng Baren hoang vu khắc nghiệt, có con sông đóng băng lượn khúc. Joan cảm thấy giá có được vài gốc cây thôi, trên cảnh tiêu điều này, thì mình có thể đỡ nản lòng. Nhưng không, tuyệt đối không có tí gì. Chẳng có một tí gì để nghỉ ngơi tầm mắt, giữa cái màu xám nhợt nhạt, đơn điệu, quái dị, nơi mà trời đất như nối tiếp nhau và cách chưa đầy một dặm đã bưng lấy mặt.

Vừa đi người thiếu phụ vừa từng bước thăm dò mặt đất, cố phát hiện ra những túi không khí trong tuyết mà cụ Pierre đã dặn, và là nơi nàng có thể thình lình biến mất. Nhưng chẳng mấy chốc nàng nhận thấy là, với đôi mắt mờ vì rét, chỗ nào cũng như nhau, trên tuyết cũng như trên băng. Mắt nàng xót như xát muối, mỗi lúc một rát thêm.

Rồi con sông bỗng tỏa rộng thành một hồ lớn. Ở đây sức gió càng mạnh, khủng khiếp đến nỗi mỗi phút Joan lại vấp ngã và chỉ mươi phân tuyết cũng trở thành một chướng ngại vật không thể vượt nổi.

Kazan vẫn cố hết sức kéo, gò lưng dưới bộ đai cương.

Cố lắm nàng mới theo kịp được nó và không để mất dấu. Chân nặng như chì, nàng vừa bước thất thểu vừa lẩm nhẩm cầu nguyện cho con.

Chợt nàng thấy hình như chiếc xe phía trước chỉ còn là một chấm đen. Nàng hãi quá. Kazan và con nàng bỏ rơi nàng rồi! Nàng hét lên một tiếng. Nhưng đó chỉ là một ảo giác vì đôi mắt mờ của nàng. Chiềc xe chỉ cách có độ hai mươi bước, chỉ cần cố một tí là đuổi kịp.

Nàng nhoài đến chiếc xe, rền rẫm, hai tay cuống cuồng ôm lấy cổ con và rúc đầu vào đống da thú, mắt nhắm nghiền. Trong khoảnh khắc nàng có cảm giác đang ở nhà, chan hoà hạnh phúc. Rồi cũng nhanh như thế, hình ảnh êm đềm bỗng tan biến và nàng lại trở về với thực tế.

Kazan đã dừng lại. Nó ngồi xuống nhìn Joan.

Nàng nằm dài trên xe không nhúc nhích: nó chờ nàng cử động và nói với nó. Thấy nàng vẫn không cựa quậy, nó liền lần đến, hít hít, vẫn không ăn thua.

Chợt nó ngẩng đầu lên, đánh hơi, mặt quay về hướng gió. Gió đang mang đến cho nó một cái gì đấy.

Nó lại ẩy ẩy mõm vào Joan như để báo hiệu, Nhưng nàng vẫn nằm dài như chết. Nó rên rỉ nghe rất thương râm và sủa một tiếng dài, đinh tai, thảm thiết.

Trong khi ấy, điều xa lạ do gió mang tới mỗi lúc một rõ hơn và Kazan, kéo thật mạnh đai cương, lại bước đi, lôi Joan theo phía sau.

Cái khối lượng nó kéo đó, vì vậy, càng thêm nặng, đòi hỏi nó phải cố hết gân sức và chiếc xe trượt cứ rít ken két tiến lên vô cùng khó nhọc. Chốc chốc, nó phải dừng chân, thở hồng hộc. Mỗi lần như thế, nó phập phồng cánh mũi hít lấy hít để. Nó cũng quay lại với Joan và rên rỉ bên cạnh để cố thức tỉnh nàng.

Nó ngã khuỵu trong đống tuyết mềm và cố mãi, tí một, tí một, nó mới lôi được chiếc xe ra khỏi đó. Thế rồi gặp được chỗ bằng nhẵn, nó càng phấn khởi kéo vì cái mùi bí mật gió thổi đến dường như càng gần.

Bờ sông có một chỗ bị phá vỡ tạo thành một nhánh sông mùa này cũng đóng băng. Giá Joan biết thì nàng đã cho con chó sói đi theo hướng đó. Chính khứu giác của Kazan dẫn đường cho nó.

Mười phút sau, nó sung sướng sủa vang và độ dăm con chó xe đáp lại. Một cái chòi bằng gỗ cây đứng bên bờ sông trong một cái vụng nằm sát rừng thông. Một làn khói đang từ mái nhà bốc lên. Chính mùi khói đã bay đến tận mũi Kazan.

Bờ sông nhẵn và dốc đứng lên đến chòi. Kazan tập trung tất cả sức lực kéo chiếc xe cùng với mọi thứ đến tận cửa. Sau đó, nó mới ngồi xuống bên cạnh Joan bất tỉnh, ngước mũi lên bầu trời và sủa vang.

Hầu như tức khắc, cửa mở và một người đàn ông chạy ra khỏi chòi.

Đôi mắt đỏ ngầu vì gió rét, Kazan trông thấy người đàn ông thốt lên một tiếng kinh ngạc rồi cúi xuống với Joan, trên chiếc xe. Đồng thời từ đống lông thú có tiếng khóc thút thít và gần như nghẹn ngào của đứa bé.

Kazan đã kiệt sức. Sức khoẻ vô địch của nó không còn nữa. Chân nó toạc cả da và rớm máu. Nhưng tiếng khóc của đứa bé làm nó tràn ngập niềm vui, yên tâm nằm xuống, với cả đai cương, trong khi người đàn ông lo bế hai mẹ con vào trong chòi ấm.

Rồi người đàn ông trở ra. Anh không già như cụ Pierre Radisson.

Anh đến gần Kazan, nhìn nó và nói:

- Trời ơi, chú mày, chỉ một mình chú mày đem nàng về cho tao… Tao phục chú mày đấy!

Không chút sợ hãi anh cúi xuống Kazan và, tháo bỏ đai cương, mời nó cùng vào trong chòi.

Kazan có vẻ lưỡng lự. Đúng lúc ấy hình như trong tiếng gió gào ngàn không ngớt, văng vẳng có tiếng Sói Xám. Nó ngoảnh đầu lại, nhưng rồi cũng quyết định đi vào.

Cửa chòi đóng lại. Nó đến nằm trong một góc tối, còn người đàn ông thì lo nấu ít thức ăn nóng trên bếp lò cho Joan.

Người thiếu phụ được đặt nằm trên giường, chưa hoàn toàn hồi tỉnh. Nhưng Kazan, ngủ gà ngủ gật trong góc, thình lình nghe tiếng nàng nức nở và, ngước mũi lên, nó thấy nàng ngồi ăn với người lạ mặt.

Kazan bò tới nằm dưới giường. Sau đó màn đêm buông xuống, trong chòi tất cả đều chìm sâu vào yên tĩnh.

Hôm sau, trời vừa sáng, người đàn ông vừa mở hé cửa, Kazan đã nhân cơ hội lẻn ra và phóng nhanh về phía cánh đồng. Chẳng mấy lúc nó tìm ra được dấu chân của Sói Xám và cất tiếng gọi bạn. Tiếng đáp từ phía sông đóng băng vẳng đến, nó liền chạy về phía đó.

Một chòm thông trở thành chỗ trú cho chúng và cả hai náu mình ở đấy. Nhưng Sói Xám không làm sao rủ được Kazan đi trốn với mình, vào những nơi sâu kín hơn, xa cái chòi gỗ và mùi người.

Luôn luôn để mắt theo dõi, một lúc lâu, Kazan thấy người trong chòi đóng đai cương vào bầy chó và đặt Joan lên xe, quấn lông thú cho nàng và đứa bé. Giá còn sống, cụ Pierre cũng làm thế. Rồi chiếc xe lên đường, Kazan bám theo vết xe và, suốt ngày hôm ấy, cứ đi theo sau, chỉ cách một ít thôi, có cả Sói Xám lần theo bước chân nó, như một cái bóng.

Cuộc hành trình tiếp tục mãi đến tận đêm khuya. Gió đã lặng. Dưới ngàn sao lấp lánh, và ánh trăng bình thản, người đàn ông thúc bầy chó đi nhanh. Khuya lắm xe mới đến một cái chòi gỗ thứ hai và người đàn ông đến gõ cửa.

Từ trong bóng tối, Kazan thấy có ánh sáng xuất hiện và cánh cửa mở ra. Nó nghe giọng nói vui vẻ của một người khác. Joan và người bạn đường đáp lại. Thấy thế, Kazan vội tìm về với Sói Xám.

Ba hôm sau, chồng Joan quay lại tìm thi hài băng giá của cụ Pierre Radisson. Kazan lợi dụng cơ hội vắng mặt này để trở lại chòi gỗ với người thiếu phụ, với bàn tay mơn trớn của nàng.

Trong những ngày và những tuần tiếp đó, Kazan lúc thì ở chòi lúc thì về với Sói Xám. Nó tha thứ cho sự có mặt của người đàn ông trẻ bên cạnh nàng và đứa bé, như nó đã chấp nhận sự có mặt của cụ Pierre Radisson. Nó hiểu rằng đó là một người thân của nàng và cả hai đều yêu quí em bé như nhau.

Cách đó một nửa dặm, trên đỉnh một ngọn núi đá rất to mà người da đỏ gọi là Núi Mặt Trời, nó và Sói Xám cũng đã tìm được một cái hốc thuận tiện để xây dựng “tổ ấm”. Chúng đã lấy đó làm hàng ổ và ngày ngày chúng xuống cánh đồng để săn bắt. Tiếng người thiếu phụ gọi thường vang lên đến tận tai chúng:

- Lu Lu! Lu Lu!

Mùa đông Bắc Địa cứ thế trôi qua, Kazan đi đi lại lại giữa chòi gỗ và Núi Mặt Trời. Còn người chồng của Joan thì chỉ suốt ngày đi đặt bẫy và tháo bẫy. Anh bẫy bắt đủ loại thú to nhỏ có bộ lông dày ấm, như chồn đen, chồn nâu, chồn trắng, chồn xám vốn rất nhiều trong vùng.

Thế rồi xuân lại trở về, cùng với Cuộc Thay đổi lớn.


-------------
-------------
(1) Đây là độ Fahrenheit (Farơnai). Một độ bách phân bằng 32 độ Farơnai. (Cái này hong hỉu rõ lắm, mọi người ai rõ về cí đơn vị đo nhiệt độ này thì giải thích hộ AT với, cám ơn nhìu)
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
5,640
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Kazan (Ca-dăng) - James Oliver Curwood

CHƯƠNG X. CUỘC THAY ĐỔI LỚN

Khắp nơi thiên nhiên trong vùng rừng núi đang tỉnh dậy. Trên trời vừng dương, xa hơn, với một ánh sáng diệu kỳ, chiếu tỏa lên các ngọn núi và các cảnh vật. Trong các thung lũng, các cây dương sắp nảy lộc. Mùi thông và trầm hương ngày càng ngào ngạt. Trên đồng bằng cũng như trong rừng sâu; ngày đêm dòng nước róc rách, do tuyết tan, làm tràn ngập mặt đất và len lỏi được một lối đi đến tận vịnh Hơt-xân.

Trong cái vịnh bao la đó, suốt ngày đêm các cánh đồng băng nứt nẻ răng rắc, đổ ầm ầm như sấm dậy, và sóng nước cứ ào ào dồn ra Bắc Băng Dương, vào cổng “Rô-oen-cơm”. Luồng gió mạnh được hình thành, nhiều lúc vẫn kéo theo với gió tháng tư một cái rét cắt da cắt thịt của mùa đông.

Núi Mặt Trời sừng sững cao vút, vượt lên trên các ngọn thông bao quanh. Đỉnh núi như một cái đầu hói luôn luôn đón nhận những tia sáng đầu tiên của vừng dương mới mọc, và những ánh sáng cuối cùng của chiều tà còn rơi rớt lại. Trên cái đỉnh núi dãi nắng đó, hang ổ của Kazan nằm ở phía khuất gió, nên suốt sáu tháng đông khủng khiếp nó vẫn được thảnh thơi ấm áp.

Hầu như suốt ngày nó chỉ ngủ, có Sói Xám nằm cạnh, bụng sát đất, chân duỗi dài, mũi luôn luôn cảnh giác với cái mùi người không xa lắm.

Trong khi Kazan ngủ và mơ màng thì Sói Xám không ngớt lo âu quan sát bạn. Mỗi lần thấy lông lưng Kazan đứng lên, Sói Xám lại gầm gừ, nhe nanh, xù lông. Cũng có đôi khi, chỉ thấy gân chân khẽ giật, cái mõm hơi nhíu, cũng đủ biết là Kazan đang mê.

Và thường khi, như đáp lại cái tư tưởng của con chó sói, một giọng người vang lên, vọng đến tận ngọn Núi Mặt Trời, lúc người thiếu phụ mắt xanh xuất hiện ở bực cửa chòi gỗ.

- Lu Lu !... Lu Lu!

Sói Xám vểnh tai, còn Kazan thì tỉnh giấc và lát sau đứng hẳn dậy. Nó nhảy lên mỏm cao nhất của ngọn núi và lồng lộn rên rỉ, trong khi tiếng gọi lại văng vẳng. Sói Xám từ nãy rón rén đi theo, gác mõm lên vai bạn. Nó biết rõ ý nghĩa của tiếng gọi kia, và rất sợ, sợ hơn cả tiếng động và hơi người.

Từ ngày nó rời bỏ bầy anh em của nó và sống với Kazan, tiếng người đã trở thành kẻ thù nguy hại nhất của Sói Xám. Nó căm thù Tiếng Người, vì Tiếng Người bắt mất Kazan của nó, buộc nó phải rình mò, suốt đêm dưới ánh trăng mờ, dưới vòm sao lặng. Những lần Tiếng Người bắt nó phải goá bụa như vậy, Sói Xám vẫn trung thành một dạ và, không đáp lại tiếng gọi của những anh em rừng rú, vẫn chờ đợi Kazan trở về. Đôi khi thấy Kazan lắng tai nghe tiếng người, nó khẽ cắn bạn để tỏ rằng mình đau buồn, và gầm gừ về hướng Tiếng Người.

Hôm ấy khi Tiếng Người vang lên lần thứ ba, Sói Xám không bám sát vào Kazan và không tìm cách giữ bạn nữa, nó quay phắt lưng lại, vào tít trong ổ.

Nó lầm lì trong đó, và qua bóng tối, Kazan chỉ thấy đôi mắt sáng quắc dữ tợn của Sói Xám.

Kazan trèo lên đỉnh Núi Mặt Trời, theo cái lối mòn chật hẹp, nhẵn thín dưới móng chân của nó, và đứng do dự. Từ tối hôm qua, nó cảm thấy một nỗi băn khoăn trong bụng, mà không sao hiểu nổi. Có một cái gì mới lạ đang lởn vởn trên Núi Mặt Trời. Nó không trông thấy nhưng cảm thấy.

Kazan lại lần xuống chỗ Sói Xám, đứng ở cửa hang nhìn vào. Sói Xám không rên âu yếm nữa mà đang nhe nanh, nhíu mép, đón tiếp nó bằng một tiếng gầm gừ dữ tợn.

Lần thứ tư, Tiếng Người lại vang lên và hàm răng Sói Xám táp mạnh nghe thật dễ sợ. Kazan do dự lần nữa nhưng cuối cùng quyết định xuống núi, lao nhanh về phía chòi gỗ.

Theo bản năng cảnh giác của Rừng Núi, vốn có sẵn trong nó, không bao giờ Kazan báo trước việc nó đến bằng tiếng sủa. Nó xuất hiện đột ngột đến nỗi Joan đang ẵm em bé trong tay, giật mình, khi trông thấy ở ngưỡng cửa cái đầu bù và đôi vai lực lưỡng của Kazan. Nhưng, không chút sợ hãi, em bé vùng vẫy tỏ ý vui thích, vừa chìa cho con chó sói hai nắm tay vừa reo lên một tiếng thật dễ thương.

- Lu Lu! – Joan dịu dàng gọi, với một cử chỉ thân thiện - Lại đây, Lu!

Cái tia sáng rừng rú, rừng rực như lửa, đang long lanh trên đôi ngươi Kazan chợt dịu xuống. Nó đứng lại, trên ngưỡng cửa, vẻ như không thích vào. Rồi bỗng dưng, cúp đuôi, nó nằm bẹp xuống đất trườn vào hệt một con chó có lỗi.

Nó trìu mến nhìn những con người sống trong chòi. Nhưng bản thân cái chòi thì nó vẫn căm ghét. Vì ở chòi nào cũng có gậy gộc, roi da và cuộc sống tôi đòi. Đối với nó, cũng như đối với tất cả mọi con chó kéo xe, so với một cái ổ kín thì nó vẫn thích ngủ trên mặt đất tuyết phủ, trên đầu lồng lộng trời cao hoặc vi vu thông rít.

Được bàn tay Joan vuốt ve, Kazan lại có cái cảm giác buồn buồn êm ái quen thuộc, đó là phần thưởng cho nó khi nó rời bỏ Sói Xám và Núi Rừng để đến với chòi gỗ. Nó thong thả ngóc đầu, gác cho được cái mõm đen lên đầu gối người thiếu phụ. Rồi nó hả hê nhắm mắt lại, mặc cho em bé vung vẩy đôi chân bé tí vào thân nó và túm chặt lớp lông cứng của nó với hai bàn tay mũm mĩm. Hơn cả sự mơn trớn của người thiếu phụ, những trò chơi trẻ con kia mang đến cho nó một niềm hạnh phúc tràn trề.
Im lìm, tập trung cảm giác, như một con nhân sư, và đờ đẫn như hòn đá, Kazan nằm không nhúc nhích, gần như nín thở. Chồng của Joan không thích thấy nó như thế, anh luôn luôn lo ngại về cái điều mà bộ óc bí mật của con chó sói có thể nghiền ngẫm. Nhưng người thiếu phụ vẫn tin tưởng hơn ở Kazan và biết là nó không thể nào phản bội.

- Chú mình ơi – nàng nói - cảm ơn chú mình đã đến theo tiếng gọi của ta. Đêm nay chỉ còn mình ta và em bé. Bố bé đi về Trạm gần đây rồi, ta tin tưởng vào chú mình để bảo vệ mẹ con ta.

Nàng cầm đuôi bím tóc dài óng mượt, vờn vờn vào mõm Kazan. Mặc dầu không muốn nhúc nhích, Kazan cũng phải khịt mũi và hắt hơi, khiến em bé rất thích thú.

Rồi Joan đứng dậy và suốt ngày hôm ấy lo đóng gói mọi thứ đồ đạc trong chòi. Kazan quan sát nàng, rất ngạc nhiên trước cái trò bí hiểm kia. Nó linh cảm sắp có một điều gì đó, nhưng không sao hiểu nổi.

Đến tối, sau khi vuốt ve nó hồi lâu, Joan nói với nó:

- Lu nhỉ, nếu đêm nay có gì nguy hiểm, Lu bảo vệ mẹ con ta chứ? Bây giờ ta đóng cửa, vì chú mình phải ở đây với ta đến mai.

Rồi nàng lại cảm động vuốt ve con chó sói. Bàn tay nàng run rẩy.

- Rồi đây, chú mình biết không, cô sẽ về nhà cô. Mùa lông thú đã kết thúc. Cô sẽ về nhà bố mẹ chồng. Ở đấy có thành phố, có nhà thờ, có rạp hát, có hoà nhạc và nhiều thứ khác vừa hay vừa đẹp. Cô sẽ đưa chú đi theo đấy, Lu ạ!

Kazan không hiểu Joan nói gì, nhưng nó cũng vẫy đuôi, rất sung sướng thấy người thiếu phụ nói với mình. Thế là nó quên mất Sói Xám, quên mất nỗi căm thù cái chòi và lẳng lặng đến nằm trong xó.
Nhưng khi mẹ con Joan ngủ rồi, lúc trời đêm trở lại yên tĩnh, nó lại thấy bồi hồi. Nó đứng lên rón rén đi quanh phòng hít hít tường vách, cánh cửa, và tất cả những thứ Joan đóng gói.

Kazan rên rỉ. Người thiếu phụ, nửa tỉnh nửa mê, nghe tiếng nó liền nói khẽ:

- Nằm yên, Lu! Ngủ đi …. ngủ đi!

Thế là nó lại thôi, nằm im giữa phòng, lo lắng vểnh tai nghe ngóng.

Và qua bức vách gỗ cây, một tiếng than vãn xa xa khẽ vẳng đến tai nó. Đấy là tiếng kêu của Sói Xám. Tiếng kêu này khác hẳn tiếng nó thường nghe. Không phải là tiếng gọi của cô đơn. Lần này khác hẳn. Nó chạy xổ đến cánh cửa đóng kín và lại rên rỉ. Nhưng Joan và em bé vẫn ngủ say, không nghe gì cả.

Một lần nữa tiếng than vãn lại vọng tới, rồi tất cả lại im lặng. Kazan nằm dài trước cửa cho đến hết đêm.

Hôm sau Joan tỉnh dậy rất sớm, và thấy Kazan bên cửa, trong tư thế rất lo lắng. Nàng vừa hé cửa, Kazan đã nhanh như chớp lỏn ngay ra ngoài. Nó phóng như bay về phía Núi Mặt Trời, nơi vừng dương đang chớm nhuộm ánh vàng.

Nó trèo thoăn thoắt lên núi, theo lối mòn nhỏ hẹp và không thấy Sói Xám ra đón.

Nó vào đến hang, hít hít không khí, chân cứng đờ, lông lưng dựng đứng. Có một cái gì mới lạ đang lởn vởn trong không khí, một cái gì mang nặng mùi vị của sự sống. Nó lách qua cái khe giữa hai tảng đá, và thò đầu vào, chạm mũi với Sói Xám, nhưng không phải Sói Xám cô đơn.

Sói Xám rên lên một tiếng rất thảm thiết. Lông lưng Kazan rạp cả xuống và nó đáp lại bằng một tiếng ư ử vô cùng âu yếm. Rồi thong thả, nó lùi dần, lùi dần, và, trong ánh bình minh, nằm ngay trước cửa hang, đem cả thân mình làm thành một cái mộc che chở cho con sói cái.

Sói Xám đã là mẹ.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
5,640
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Kazan (Ca-dăng) - James Oliver Curwood

CHƯƠNG XI. THẢM KỊCH Ở NÚI MẶT TRỜI

Suốt cả ngày hôm đó, Kazan ở trên đỉnh Núi Mặt Trời và canh gác cái hang của mình.

Xẩm tối, Sói Xám rời ổ, vừa trườn mình đến chỗ bạn đường vừa khẽ ư ư? và cắn yêu vào cổ nó. Theo bản năng cố hữu của cha ông, Kazan đáp lại bằng cách liếm liếm vào mõm nó. Cô ả sung sướng. Bỗng nhiên chúng nghe thấy tiếng kêu nho nhỏ vọng đến từ phía kẽ hang ở vách đá, Kazan vẫy đuôi còn Sói Xám vội vã chạy đến với bầy con nhỏ của mình.

Đêm đó, ánh trăng vàng óng chiếu sáng khắp Núi Mặt Trời và trong ánh sáng ấy xuất hiện Sói Xám và ba con nhỏ lảo đảo bước theo mẹ.

Kazan nghĩ đến đứa bé của Jeanne khi trông thấy những búi lông tơ mềm mại bé bỏng không ngừng ngã nhoài vì mất thăng bằng, đang đến nép mình vào bộ lông dày của nó.

Trăng vằng vặc trên đỉnh bầu trời và đêm sáng rõ gần như ban ngày, cũng là lúc Kazan đi săn mồi bởi vì nó phải bảo đảm miếng ăn cho cả gia đình...

ở chân núi đá, một con thỏ trắng lớn thình lình nhảy nhót trước mũi Kazan, nó lao vào đuổi theo con mồi trong khoảng một cây số. Sau đó, nó thận trọng trườn vào dưới những lùm cây, yên lặng như một cái bóng. Cách đấy không xa, chỉ hai cú nhảy nhanh chóng cũng đủ tóm gọn.được trong mõm bữa ăn dành cho Sói Xám và lũ con, thế là nó chậm rãi quay về Núi Mặt Trời. Khi nó đến con đường mòn hẹp dẫn lên đỉnh núi đá, thình lình nó sững người lại bất động; nó ngửi thấy cái gì đó, một mùi còn rất mới. Nó thả con mồi, lông dựng đứng. Bởi vì đó không phải là mùi của thỏ, của rái cá hoặc của nhím...

Nó nhận thấy ngay dấu vết của răng nanh và móng vuốt không có cách đây ít lâu, khi nó xuống thảo nguyên. Và bỗng nhiên, vọng đến từ Núi Mặt Trời, tiếng đánh nhau khiến nó thốt lên một tiếng và lao mình đi.

Khi nó đến được hang, cảnh tượng hiện ra dưới ánh trăng làm nó tê liệt. Phía dưới đỉnh núi, trên một mặt bằng tự nhiên cheo leo bám vào sườn núi, Sói Xám đang đánh nhau với một con mèo rừng to tướng lông xám, con này đã vật ngã được Sói Xám và chế ngự nó bằng thân hình cao lớn. Một lần nữa, Sói Xám rên lên đau đớn.

Kazan lao vào. Trong sự tấn công của nó có cái nhanh nhẹn, sức mạnh thầm lặng của Sói, sự dũng cảm, dữ tợn và hiểu biết chiến thuật của chó Husky... Không một con chó nào chống lại được một đòn công kích như thế...

Nhưng mèo rừng lại làm được. Quả vậy, cái giống mà người da đỏ đã mệnh danh là "Mow-lee", nghĩa là tia chớp, là loài thú nhanh nhẹn nhất vùng Sơn Lâm phía Bắc. Thường thường, những chiếc răng nanh dài gần ba phân của Kazan ắt phải cắm phập vào mạch máu cổ nhưng mèo rừng, trong nháy mắt, nhảy bật ra phía sau như một trái bóng và hàm răng của đối thủ chỉ bập vào lớp da thịt ở cổ nó... Kazan, giờ đây không phải chỉ đối đầu với răng của Sói hay của chó husky mà là hai mươi móng vuốt nhọn sắc như dao cạo; và để ngăn những móng vuốt này, cắn vào cổ của mèo rừng là chưa đủ...

Kazan nghe thấy Sói Xám rống lên đau đớn, nó đoán rằng Sói Xám đã bị thương rất nặng. Thế là, nỗi căm thù nhân sức mạnh lên gấp bội, và bằng một cú đớp, nó ngoạm chặt họng con mèo rừng. Tuy nhiên, thêm một lần nữa, kẻ thù lại vừa kịp thoát chết...

Kazan biết rằng cách duy nhất để giết kẻ xâm phạm là xé rách cổ họng nó... Và thình lình, nó thực hiện được miếng đòn chí tử mà nó chờ đợi:

nó buông con mồi ra chốc lát và lúc con mèo rừng lùi ra phía sau để tẩu thoát, nó lại lao đến.đớp vào cổ họng và lần này, nó nằm phía trên con mèo.

Móng vuốt sắc nhọn của con mèo cày trên sườn nó nhưng không giết được nó vì chỗ phạm nằm cao hơn một chút. Chắc hẳn móng vuốt này sẽ chạm đến được một cơ quan trọng yếu nếu mèo rừng có thể tấn công thêm lần nữa... Nhưng chúng quần nhau bên bờ vách đá và bỗng nhiên, trong một khoảng im lặng đáng kinh ngạc, chúng cùng lăn nhào vào khoảng không.

Tảng đá đầu tiên nhô ra khoảng hai chục mét bên dưới và trong suốt thời gian rơi của hai đối thủ, Kazan càng cắm chặt nanh vào con mồi.

Hai con vật rơi đập mạnh xuống tảng đá. May mắn kỳ diệu, là Kazan vẫn nằm trên mình đối thủ.

Vừa chạm đất, Kazan liền vùng dậy nhanh như chớp, dù còn lảo đảo nhưng sẵn sàng lao vào trận chiến, mép vểnh ngược...

Trái lại, mèo rừng nằm sóng soài, bất động, mềm nhũn. Kazan lại gần, thủ thế, thận trọng đánh hơi. Khi hiểu rằng trận chiến đã kết thúc, nó vội vàng trèo lên núi đá để đến với Sói Xám.

Sói Xám đã náu mình trong hang, tránh ánh trăng. Ở cửa hang là xác ba đứa con của nó nằm bất động.

Mèo rừng đã xé tan xác chúng.

Kazan vừa rên khe khẽ vừa tiến đến và thò đầu vào ổ. Sói Xám khe khẽ nức nở, cuộn tròn trong bóng tối. Kazan lại gần và liếm vào đầu, vào đôi vai bị thương của nó.

Sói Xám rên rỉ suốt đêm. Và chỉ khi bình minh đến, nó mới tìm được can đảm rời xa xác của các con.

Lúc ấy, Kazan nhận ra được hậu quả của cuộc tấn công khủng khiếp của mèo rừng.

Sói Xám đã bị mù.Đôi mắt long lanh của Sói Xám từ nay sẽ không nhìn thấy ánh sáng nữa, khôngphải chỉ một ngày hay một đêm mà mãi mãi. Đêm dày mù mịt, mà không một mặt trời nào xuyên thủng nữa, đã bịt tấm vải liệm lên đôi con ngươi của Sói Xám.

Và, nhờ cái bản năng tự nhiên của thú vật trước những sự việc mà nó không tài nào lý luận nổi, Kazan hiểu rằng từ phút này trên đời, bạn mình đã trở thành bất lực, hơn cả những sinh linh nhỏ bé bất hạnh, mấy giờ trước còn nhảy nhót vờn đùa quanh mẹ.

Suốt ngày hôm đó tha hồ cho Joan cất tiếng gọi. Mỗi lần tiếng nàng vẳng đến Núi Mặt Trời, Sói Xám nghe thấy lại sợ hãi nằm sát vào Kazan. Kazan cụp tai xuống và lại liếm bạn âu yếm hơn.

Xế chiều Kazan xuống núi và lùng sục trong rừng một lúc, đưa về được một con thỏ trắng cho bạn. Sói Xám lấy mõm dúi dúi vào lớp lông con thỏ, ngửi ngửi mùi thịt, nhưng không ăn.

Buồn rầu, nghĩ rằng vì gần lũ sói con mà Sói Xám buồn, Kazan liền khẽ sủa động viên, thúc bạn đi xuống rời khỏi ngọn núi bi đát. Sói Xám lần mò theo và, tuy trượt ngã, cũng xuống được đến chân núi.Rồi mõm luôn luôn gác trên lưng bạn đường, nó cùng với Kazan đi sâu vào rừng thông.

Cái hố đầu tiên phải vượt qua tuy rất nông cũng buộc Sói Xám phải dừng lại, khiến Kazan càng nhận thấy sự bất lực của bạn.Nó thúc bạn lấy đà, cùng nhảy với nó mãi mà không được. Sói Xám cứ như thút thít, và hai chục lần cứ nằm dám xuống đất trước khi nhảy liều.Cuối cùng nó cũng nhảy, nhưng động tác cứng đờ, thiếu mềm mại, nó rơi bịch xuống bên kazan. Và sau đó, hơn bao giờ hết, nó không dám rồi Kazan nửa bước. Nó cảm thấy muốn được an toàn, hông nó phải luôn luôn sát vào hông bạn đường và mõm nó không được rời khỏi vai bạn.

Chúng cùng đi như vậy được nửa dặm . Sói Xám học dần cách đi mò, cứ loạng choạng ngã luôn. Xẩm tối một con thỏ tắng xuất hiện, Kazan đuổi theo và, sau khi nhảy được độ hai mươi bước, nó nhìn lại xem Sói Xám có theo không. Sói Xám vẫn đứng tại chỗ trơ như đá. Nó đành bỏ con thỏ quay về với bạn.
Đêm ấy chúng cùng nằm trong một bụi rậm và hôm sau Kazan mới để Sói Xám lại đó để đi thăm cái chòi gỗ.

Nó gặp vợ chồng thiếu phụ. Hai người nhận thấy ngay những vết thương, chưa thành sẹo, trên vai trên sườn nó.

- Nó đánh nhau với gấu hay mèo rừng gì đây thôi - người đàn ông nhận xét – Sói thì không gây được những vết thương như thế này đâu.

Những vết thương đó lại được bàn tay êm dịu của Joan băng bó. Nàng vừa nói với Kazan vừa rửa những vết thương bằng nước ấm và bôi thuốc mỡ. Kazan cảm thấy hết sức dễ chịu. Suốt nửa tiếng đồng hồ, nó nằm nghỉ trên vạt áo của thiếu phụ, nàng có ý ngồi gần vào nó. Rồi Kazan sung sướng nhìn nàng đi đi lại lại trong phòng, thu dọn những gói hàng bí mật và chuẩn bị bữa ăn.

Ngày hôm ấy trôi qua như thế, cách xa cánh rừng bị lãng quên, và khi Kazan quyết trở về với Sói Xám thì trăng đã mọc. Nếu Joan biết có con vật đáng thương mà từ nay Kazan là mặt trời, là muôn sao, là ánh trăng, là cuộc sống còn, là tất cả trên đời, thì nàng cũng đã đến cứu giúp Sói Xám. Nhưng nàng không biết điều đó.

Tám ngày nữa lại trôi qua, Kazan theo thói quen cũ, vẫn chia thời gian của mình giữa rừng rậm và cái chòi gỗ. Rồi một buổi xế trưa, người đàn ông lồng vào cổ nó một cái vòng dính liền với một sợi dây da chắc, và buộc vào một cái mấu sắt ở vách gỗ cây.

Suốt một ngày đêm nó phải ở đấy, hôm sau, đôi vợ chồng dậy rất sớm.

Chồng Joan bế em bé đi trước. Joan theo sau, nắm sợi dây da và Kazan. Cửa chòi đóng chốt chắc chắn, bên ngoài lại có thêm ván và những cây gỗ nhỏ đóng đinh vít chặt. Đoàn người đi xuống bờ sông, một chiếc thuyền to đầy hàng đã ở đấy chờ họ. Hôm trước, một người đàn ông khác đã đến, đem cái xe trượt và bầy chó kéo xe đi trước rồi. Joan cùng với em bé lên thuyền trước. Nàng ngồi ở đằng lái. Kazan nằm bên cạnh. Người chồng nắm lấy chèo và thuyền rời bến rẽ nước lướt đi.

Thiếu phụ vẫn nắm chặt sợi dây xích Kazan, ngoảnh nhìn về phía cái chòi gỗ sắp khuất sau hàng cây, đưa tay vẫy vẫy. Một cảm xúc dạt dào hiện rõ trên mặt, đôi mắt nàng rưng rưng ngấn lệ.

- Vĩnh biệt ! Vĩnh biệt ! Nàng thốt lên.

- Em không buồn đấy chứ? - người chồng hỏi – em có hối tiếc về việc ra đi của chúng mình không ?

- Không, không ! – nàng vội đáp – Nhưng từ trước đến nay, em vẫn hằng yêu quý những cánh rừng đẹp đẽ và cảnh thiên nhiên hoang dã này. Hầu hết cuộc đời của em đã trải qua tại đây, cùng với người cha thân thương mà em đã phải để nằm lại đây. Đối với em, không bao giờ có một thành phố nào có thể sánh kịp với nó.

Nàng nghẹn ngào thổn thức, và quay lại nhìn con…

Chiếc thuyền nhờ sức nước đang lướt nhanh.

Một dải cát dài, tách thành bờ sông rộng, nhô ra ngoài, tạo thành một thứ bán đảo bằng phẳng trơ trụi.
Chồng Joan gọi vợ, chỉ cho vợ một chấm đen nhỏ đang đi đi lại lại trên dải cát. Nàng nhận ra ngay đấy là Sói Xám, mà đôi mắt tắt đang hướng về phía Kazan. Không nhìn thấy nhưng làn không khí nó hít hít bảo cho nó biết rằng Kazan với người đàn ông, người đàn bà, đang đi xa, đi xa, đi xa mãi.

Kazan đứng ngay dậy, đờ đẫn nhìn lại.

Trong khi đó, qua tiếng mái chèo, Sói Xám hiểu là chiếc thuyền đang rời xa, nên đã đến bên mép nước. Tại đấy, nó ngồi xuống, ngẩng đầu hướng về phía mặt trời từ nay không còn tia sáng đối với nó, và gửi cho Kazan một tiếng rống dài vọng.

Sợi dây da bỗng tuột khỏi tay Joan. Thuyền tròng trành mạnh và một thân hình to lớn màu nâu chọc thủng không khí. Kzan đã biến mất.

Người đàn ông cầm lấy súng, đưa lên vai, chĩa về hướng Kazan đang bơi, nói :

- Con chó chết ! Láo thật ! Để tao bảo cho mày …

- Không ! Đừng bắn ! Để nó về với nhau ! Mặc nó, mặc nó ! … Đó mới là chỗ của nó !

Kazan đã vào đến bờ, rùng mình vẩy hết nước trên lớp lông. Lần cuối cùng, nó nhìn lại chiếc thuyền đang đưa Joan đi, và vài phút sau biến mất.

Sói Xám đã thắng Joan.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
5,640
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Kazan (Ca-dăng) - James Oliver Curwood

CHƯƠNG XII : NHỮNG NGÀY KHÓI LỬA

Từ nay càng ngày Kazan càng quên dần cuộc đời kéo xe xưa kia của nó. Đối với nó cuộc đời đó chỉ còn là một hồi ức xa xăm, như những kỷ niệm phai mờ đôi khi trỗi dậy trong lòng chúng ta, hệt như những đốm lửa trong đêm tối.

Việc lũ sói con sinh ra, chết đi, tấm thảm kịch rùng rợn trên Núi Mặt Trời, cuộc chiến đấu với mèo rừng dẫn đến cảnh mù loà của Sói Xám, rồi chuyện ra đi của Joan và em bé, luôn luôn chiếm hết tâm trí nó.

Cuộc trả thù mèo rừng vẫn không trả lại đôi mắt cho Sói Xám, và việc từ nay Sói Xám sẽ không thể cùng nó đi săn trên cánh đồng bao la hay trong rừng sâu thẳm là một nỗi thất vọng thường xuyên của Kazan. Cho nên mối thù của nó với dòng họ mèo rừng lúc nào cũng mãnh liệt, sâu sắc, và nó trở thành kẻ thù không đội trời chung của toàn thể giống mèo rừng.

Không những nó quy cho mèo rừng cái tội làm mù Sói Xám, làm chết lũ sói con, mà còn gây cả nên việc ra đi của Joan và em bé. Và mỗi khi đánh hơi được mùi mèo rừng là nó lồng lộn như một con yêu tinh, nhăn mặt nhe nanh gầm gừ cau mép.Tất cả tính chất độc ác dữ tợn di truyền của Sơn Lâm lại trở về với nó.

Một quy ước mới về cách sống đã dần dần hình thành giữa Kazan và cô bạn đường mù. Lúc nào chúng cũng đi bên nhau, Sói Xám đã biết cách không để lạc mất Kazan, cứ đi sát vào sườn bạn, vai chạm vai, về phía mình, Kazan cũng biết cách luôn luôn đi liền với Sói Xám, không bao giờ nhảy mà chỉ chạy thong dong. Nó cũng hiểu là phải chọn lối đi sao cho dễ đi, hợp với chân Sói Xám. Chỗ nào phải nhảy qua, thì nó vừa dùng mõm đẩy Sói Xám vừa khẽ rên rỉ. Thế là Sói Xám dỏng tai lên lấy đà. Nhưng vì không tính đúng được khoảng cách cần nhảy, luôn luôn nó phải nhảy xa hơn để khỏi ngã nửa chừng. Cho nên đôi khi cũng gây trở ngại. Cứ thế đôi bạn đã đi đến chỗ hiểu nhau.

Cuối cùng để bù đắp cho thị giác bị hỏng, khứu giác và thính giác của Sói Xám phát triển tinh hơn. Kazan cũng nhận thấy điều ấy nên nó luôn luôn quan sát bạn và dựa vào bạn, mỗi khi lắng nghe một tiếng động đáng ngờ, hoặc hít ngửi không khí hoặc đành hơi một dấu chân.

Lúc chiếc thuyền khuất hẳn, một bản năng tinh tế hơn cả lí trí bảo cho Kazan biết là vợ chồng Joan và em bé đã ra đi để không bao giờ trở lại. Tuy vậy, suốt mấy tuần liền, ngày nào nó cũng từ cái hang mà nó và Sói Xám đã ở suốt mùa hè, dưới một lùm thông và trám hương dày, gần con sông, trở lại chòi gỗ để thăm dò. Nó khắc khoải chờ đợi một dấu hiệu sống nào đó. Nhưng cánh cửa không bao giờ mở. Những tấm ván, những khúc gỗ con vẫn đóng chặt vào cửa sổ và từ ống khói không một làn khói nào toả lên. Cỏ dại và cây leo bắt đầu phủ kín con đường mòn và các tường gỗ. Nó cố hít ngửi cái mùi người, ngày càng nhạt, thầm đượm trong những bức tường kia.

Một hôm, nó gặp một chiếc dép trẻ con dưới một cửa sổ đóng kín. Chiếc dép tuy đã cũ mòn và tuyết mưa đã làm đen xỉn, cũng gây được một niềm hạnh phúc cho Kazan, khiến nó cứ nằm ngay bên cạnh suốt mấy giờ liền. Thời gian đó và cũng trong lúc ấy thì em bé ở cách xa đó hàng nghìn dặm đang chơi với những thứ đồ chơi kỳ diệu do văn minh sáng chế. Mãi đến cuối ngày Kazan mới quay về với Sói Xám, giữa ngàn thông và trám hương.

Chỉ có những dịp về thăm chòi gỗ là Sói Xám không đi theo Kazan. Thời gian còn lại, hai con không bao giờ rời nhau. Khi nào chúng phát hiện ra dấu vết một con mồi, thì Kazan lần theo để săn bắt, còn Sói Xám đứng chờ bạn. Thỏ trắng là thức ăn thông thường. Có lần, vào một đêm trăng sáng vằng vặc, Kazan rượt đuổi và cắn chết một con hươu non. Vì mồi nặng quá không tha nổi, nó phải chạy về tìm Sói Xám và dẫn bạn đến chỗ con mồi.

Thế rồi xảy ra trận cháy lớn.

Sói Xám đánh hơi được mùi cháy khi lửa còn cách xa những hai ngày đường về hướng tây. Chiều hôm ấy, mặt trời lặn trong một lớp mây mờ xám ảm đạm. Vừng trăng, mọc lên ở phía chân trời đối diện, đỏ rực như máy. Trên đồng tuyết bao la bao giờ có trăng cũng thế, người da đỏ bảo đó là “Trăng máu” và đối với họ không khí tràn đầy những triệu chứng xấu.

Sáng hôm sau, Sói Xám trở nên băng khoăng lạ lùng và, giữa quãng trưa, Kazan cũng đánh hơi thấy trong không khí cái điềm mà bạn nó đã nhận được trước đó nhiều giờ. Cái mùi đó từng phút từng phút, cứ tăng dần và xế chiều, mặt trời bị lớp khói che phủ.

Ngọn lửa cháy ào ào trong những cánh rừng thông và trám hương, bắt đầu từ hướng bắc đến. Rồi gió chuyển nhanh từ phía nam sang phía tây, thổi bật những cột khói quay sang hướng ngược lại. Mỗi lúc một chắc chắn là đám cháy chỉ dừng lại bên bờ sông, phía mà lò lửa di động đang xua đuổi tới hàng ngàn con vật đang điên cuồn lồng lộn.

Suốt đêm hôm đó bầu trời vẫn tiếp tục rực lên một ánh đỏ mênh mông và rạng sáng hôm sau, khói và nóng ngột ngạt không sao chịu nổi.

Hoảng loạn, Kazan xoay đủ cách để tìm cho ra một lối thoát. Đối với nó bơi qua sông là chuyện dễ. Nhưng Sói Xám, mà nó không rời một giây, phản đối không chịu bơi. Cứ hễ móng chân chạm vào mặt nước, nơi mà Kazan dẫn nó đến, là nó co dúm hết mọi thớ thịt lùi lại. mười hai lần, Kazan nhảy xuống dòng sông, vừa bơi vừa gọi bạn.

Sói Xám chỉ đồng ý tiến trong nước chừng nào chân còn chạm đất. Hết chạm đất là nó nhất quyết quay lui.

Lúc này tiếng lửa rít vèo vèo nghe đã rõ. Hươu, nai hoãng, nai Bắc cực, đua nhau nhảy ào ào xuống nước và rẽ sóng sang đến bờ bên kia không khó nhọc gì. Một con gấu đen, lệch bệch với hai chú gấu con cũng nhảy xuống nước, và hai chú gấu con cũng theo mẹ. Kazan đưa đôi mắt đỏ ngầu nhìn nó và rên rỉ với Sói Xám, nhưng Sói Xám nhất định không nhúc nhích.

Nhiều dã thú khác của Sơn Lâm, cũng sợ nước như nó, hoặc không muốn, hoặc không bơi được đều đến náu mình trên cái dải cát hen trơ trọi nhô ra ngoài sông.

Trong số đó có một com dím to béo, một con rái cá nhỏ hình dáng thon gọn, và một con mèo cá (1) lúc nào cũng hít hít không khí và rên rỉ như một đứa bé. Hàng mấy trăm chồn trắng chen chúc nhau trên dải cát trắng như một binh đoàn chuột, tiếng kêu chí choé hoà thành một điệu hoà tấu bất tận. Rất nhiều cáo cuống cuồng chạy tìm một cái cây bị gió quật đổ nằm ngang sông, có thể dùng làm cầu để vượt sang bờ bên kia.

Nhưng lòng sông quá rộng. Cũng có một số anh em cùng loài với Sói Xám, những con sói, do dự không dám bơi qua sông.

Thân mình nước chảy ròng ròng, hơi thở hổn hển, gần chết ngạt vì nóng và khói, Kazan đến bên cạnh Sói Xám. Nó hiểu chỗ trú duy nhất còn lại là cái doi cát và thấy có trách nhiệm dìu bạn đến đó. Vừa đến gần cái eo đất con nối liền doi cát vào bờ, chúng cảm thấy cánh mũi co dúm lại, nên chỉ dám tiến lên một cách dè dặt. Khứu giác của chúng báo cho biết một kẻ thù đang ở đâu đây không xa.

Quả thật, chẳng mấy lúc chúng phát hiện ra một con mèo rừng to, đã chiếm lĩnh cả lối đi : nó nằm trên đất, chắn ngang toàn bộ lối vào dải cát. Ba con dím, không qua được, nằm co tròn lại, bao nhiêu lông dự cả lên, rung rung. Một con mèo cá, cũng ở trong tình trạng ấy, rụt rẻ gầm gừ với con mèo rừng. Con này, nhận thấy Kazan và Sói Xám, liền cụp tai xuống, bắt đầu giữ thế thủ.

Sói Xám đã sôi sục, quên mất cả là mình mù, sắp nhảy vào địch thủ. Nhưng Kazan, hằn học gầm gừ dùng vai cản bạn lại. Sói Xám đành đứng im tại chỗ, vừa phì bọt mép vừa rên rỉ, trong khi Kazan đơn độc bước vào trận chiến.
Nó nước tới, chân bước nhẹ nhàng, hai tai chĩa thẳng về phía trước, không có một vẻ gì đe doạ trong dáng đi cả. Đó là chiến lược quyết tử của giống chó husky rất tài ba trong nghệ thuật quật chết kẻ thù.

Một người quen với văn minh không khỏi nghĩ là con chó sói đang đến gần con mèo rừng với những ý định hoàn toàn thân thiện. Nhưng con mèo rừng biết đang ở trong tình huống nào rồi. Bản năng đi truyền đã dạy cho nó là nó cũng đang đối diện với một kẻ thù. Tuy nhiên điều nó không ngờ tới là tấn thảm kịch trên Núi Mặt Trời đã làm cho địch thủ dữ tợn nhiều hơn.

Về phía mình, chú mèo cá đã hiểu là cuộc ác chiến sắp diễn ra, nên cứ nằm rạp xuống đất.

Còn bầy dím thì cứ chíp chíp điên cuồng như một lũ trẻ con sợ hãi và lại còn dựng thẳng tất cả lông lên nữa.

Giữa những đám khói một lúc một dày, con mèo rừng nằm dán bụng xuống đất như hổ báo, hai chân sau thu lại, sẵn sàng để lao tới.

Kazan cứ bước vòng quanh nó nhẹ nhàng, gần như không có trọng lượng, và con mèo rừng cũng xoay xoay không kém phần nhanh nhẹn. Quãng hơn hai mét ngăn cách chúng nó.

Chính con mèo rừng, như một quả cầu, lao trước vào địch thủ. Không thèm nhảy tránh sang bên, Kazan đưa vai ra chịu và, nhờ nặng cân hơn, đón nhận miếng đòn không nao núng. Chú mèo to bị hất tung lên không, với cả hai chục móng vuốt sắc như dao cạo và nặng nề rơi xuống đất, bốn chân bủn rủn.

Kazan lợi dụng cơ hội đó, không để mất thì giờ, nhảy bổ vào gáy con mèo rừng.

Sói Xám cũng nhảy theo. Luồn dưới bụng Kazan, nó cắn hai hàm răng vào một chân sau địch thủ. Tiếng xương kêu răng rắc.

Con mèo rừng bị hai khối nặng đè lên mình, cố vùng lên một cách tuyệt vọng. Nó kéo theo cả Kazan lẫn Sói cái, hai con này đã may mắn gỡ ra kịp thời, và sắp đổ xuống một con dím nằm đấy. Hàng trăm cái chông nhọn hoắc cắm vào mình nó. Điên dại vì đau và rống lên như bị quỷ ám, nó cắm đầu chạy trốn, nhào vào đám lửa hồng, biến mất trong đám khói.

Kazan khôn ngoan không đuổi theo. Con mèo cá nằm sóng xoài như chết, hé đôi mắt đen dữ tợn nhìn Kazan và Sói Xám. Lũ dím vẫn chiếp chiếp inh ỏi như van xin tha chết.

Trong khi ấy ngọn lửa đã lan đến bờ sông. Không khí nóng rát như một lò than hồng. Kazan và Sói Xám vội vàng tránh vào chỗ tận cùng của doi cát mà một màn khói đang trùm kín.

Chúng cuộn tròn mình lại, đầu rúc vào bụng. Tiếng đám cháy gào rít nghe như thác gào, cộng vói tiếng cây đổ răng rắc thậ khủng khiếp. bầu trời đầy tro và tàn lửa nóng bỏng.

Nhiều lần Kazan phải dưõi thẳng, vùng dậy rũ lông để vẩy hết những cành con cháy bỏng do gió thổi rơi vào nó, thiêu đốt khét lẹt cả lông và da, như trăm nghìn mảnh sắt đỏ.

Lửa dừng lại bên bờ sông, nơi có những bụi cây xanh, rẽ chìm trong nước, mọc thành hàng dày. Đôi bạn trốn rúc vào đấy. Nóng và khói đã bắt đầu dịu bớt.

Nhưng phải khá lâu Kazan và Sói Xám mới ngoi được đầu ra và thở tự do hơn. Không có cái doi đất quý hoá kia thì chúng đã hoàn toàn bị thui vàng. Vì khắp phía sau chúng, thiên nhiên đen xịt một màu và mặt đất hoàn toàn bị nung cứng.

Cuối cùng màn khói sáng dần. Từ phía bắc và phía đông, gió lại nổi lên vừa thổi tan hoặc đẩy lùi khói, vừa làm cho bầu trời mát dịu.

Con mèo cá quyết định trước tiên quay lại đất liền trở về chỗ còn được gọi là rừng. Nhưng lũ dím thì vẫn nằm vo tròn khi Kazan và Sói Xám định rời khỏi chỗ trú.

Chúng đi suốt đêm tiếp đó, cứ dọc theo bờ sông ngước mãi dòng nước. Tro nóng quá làm chân chúng bỏng rát, nhức nhối. Mặt trăng vẫn đỏ và ảm đạm, giống như một vệt máu bắn lên trời.

Ròng rã bao nhiêu giờ đôi bạn đi bên nhau, xung quanh đều vắng lặng. Tịnh không một tiếng động, không một tiếng cú kêu. Vì trước ngọn lửa lớn, tất cả chim chóc bên kia bờ cũng đã trốn hết. Không một dấu hiệu nào của sự sống còn tồn tại trên mảnh đất này, nơi hôm qua còn là thiên đường cho muôn thú của Sơn Lâm.

Kazan biết muốn tìm được miếng ăn cho mình và cho Sói Xám thi phải đi xa nữa, rất xa nữa.

Bình minh, đôi bạn đến một nơi mà con sông đã bớt rộng, tạo thành một đầm nước.

Một số hải li đã đắp một con đê, nhờ đó Kazan và Sói Xám cuối cùng có thể sang bờ bên kia, nơi mặt đất lại xanh tốt phì nhiêu.

---------------
(1) : một loại mèo rừng bắt cá
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
5,640
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Kazan (Ca-dăng) - James Oliver Curwood

Chương XIII : GIÁO SƯ PÔN UÂY-MAN CHỤP ẢNH KAZAN VÀ SÓI XÁM


Chúng còn đi hai ngày nữa theo hướng tây. Vùng đất lúc này chúng đang sống là vùng “nước đọng” vô cùng ẩm ướt và lầy lội. Chúng ở lại đấy hết mùa hè.

Cũng trong vùng này, một người da đỏ lai Pháp, tên là Hăng-ri Lô-ti, đã dựng một cái chòi.

Người mảnh khảnh, nước da đỏ sậm, anh vốn là một trong những tay săn mèo rừng nổi tiếng nhất trong cái xứ sở rộng lớn lân cận vịnh Hơt-xân. Nước đọng đối với thú rừng là một đất nước lý tưởng, nơi mà thỏ trắng nhung nhúc kể có hàng vạn. Mèo rừng vốn ưa thích giống thịt này nên cũng rất nhiều. Hăng-ri Lô-ti từ một trạm của vịnh, đến vào đầu mùa thu để khảo sát “dấu hiệu” của loài thú này và đã dựng một cái chòi, cách hang Kazan và Sói Xám độ năm sáu dặm.

Bước sang đông, ngay từ trận tuyết đầu tiên, anh người lai trở lại cái chòi nói trên với cả xe, chó, bẫy, và lương thực dự trữ. Ít lâu sau, một hôm người chỉ đường đã dẫn đến cho anh một người lạ mặt muốn xin ở nhờ.

Đấy là một người trạc băm hai băm ba tuổi, hồng hào, tràn đầy sức sống, giáo sư động vật học; ông đang thu thập tài liệu cần thiết cho một tác phẩm quan trọng ông định viết, nhan đề :

“ Tư duy và bản năng của các loại thú Sơn Lâm”

Ông mang rất nhiều giấy để ghi chép những điều quan sát được, một máy ảnh và bức chân dung người vợ trẻ. Vũ khí độc nhất của ông là một con dao nhíp.

Ngay buổi sơ kiến, ông tỏ ra được thiện cảm của Hăng-ri Lô-ti. Thật vô cùng may mắn. Vì hôm ấy anh người lai đang bực bội cáu gắt. Ngay tối hôm ấy, anh giải thích cho ông khách rõ lý do thái độ của mình, lúc hai người ngồi hút thuốc bên cạnh cái bếp lò tỏa ánh đỏ rực.

“Kỳ lạ thật ! Kỳ lạ thật ! – anh người lai nói - Thế là bảy con mèo rừng bẫy được, con nào cũng hoàn toàn bị xé nát cả.Cứ như là một đống xương thỏ bị cáo ăn, không nói sai. Cho đến nay, không một con thú nào, kể cả gấu nữa, lại tấn công một con mèo rừng đã bị bẫy. Đây là lần đầu tiên tôi gặp một chuyện như thế này. Tấm da bị xé nát còn lại không đáng giá nửa đô-la. Bảy con mèo rừng, mất đứt hai trăm đô-la ! Chỉ có hai con sói chơi tôi cái trò này. Hai, luôn luôn hai, không bao giờ một. Tôi biết thế là nhờ dấu chân chúng để lại. Chúng lần theo hàng bẫy của tôi, và còn ăn thêm tất cả số thỏ bị tóm. Chúng chê mèo cá, chồn nâu, chồn trắng, trái cá, chắc hẳn vì dở quá. Nhưng mèo rừng thì mẹ kiếp ! Chúng nhảy lên mình nó và cắn xé bộ lông như khi ta bứt bông dại mọc trong bụi rậm. Tôi đã thử nhét nhân ngôn vào trong mỡ hươu. Tôi đã đặt bẫy thép, nguỵ trang rất khéo, đã dùng bẫy sập, con nào mắc vào là chỉ có chết. Chúng coi thường tất. Nếu tôi mà không tóm được chúng thì chúng buộc tôi phải bán xới nơi đây. Tôi bẫy được năm con mèo rừng đẹp, thì chúng xé của tôi mất bảy ! Việc đó không thể tiếp tục thế này mãi được.”

Câu chuyện này đã thu hút Pôn Uây-man một cách đặc biệt. Ông thuộc loại có đầu óc suy nghĩ ngày càng nhiều, cho rằng thường thường, do lòng ích kỷ của nòi giống, con người hoàn toàn mù quáng trước nhiều sự việc của tạo hoá, mà không phải là những sự việc kém thú vị nhất. Ông đã không ngại lớn tiếng tuyên bố, và nhờ sự khẳng định táo bạo đó mà ông nổi tiếng trong toàn bộ nước Ca-na-đa, rằng con người không phải là sinh vật duy nhất có khả năng suy luận về hành động của mình, và trong hành động khéo léo, đúng lúc của một con vật, có thể có một cái gì khác ngoài bản năng.

Ông cho rằng đằng sau những sự việc Hăng-ri Lô-ti kể, có một lý do thầm kín rất thú vị cần phát hiện. Mãi cho đến tận nửa đêm, câu chuyện chỉ xoay quanh hai con sói bí mật.

“ Có một con to một con nhỏ - anh người lai nói - và lúc nào cũng chính con đó khai chiến và đánh nhau với con mèo rừng bị bẫy. Điều đó, vẫn những dấu vết để lại trên tuyết làm cho tôi biết. Suốt thời gian cuộc chiến, con sói nhỏ đứng cách ra, và chỉ khi nào con mèo rừng quỵ, nó mới đến giúp con sói kia xé xác địch thủ. Điều đó nữa, cũng do vết để lại trên mặt tuyết nói rõ cho tôi biết. Chỉ có một lần, tôi có thể nhận thấy là con sói nhỏ cũng xông vào vòng chiến. Lần này hẳn là phải quyết liệt hơn vì trên mặt tuyết có một thứ máu khác hoà vào máu con mèo rừng. Nhờ một vệt máu đó, tôi đã lần theo dấu vết hai con quỉ suốt một dăm đường. Thế rồi mất hút, như thường lệ, vào trong những bụi rậm không tài nào vào được.”

Hôm sau và hôm sau nữa, nhà động vật học cùng với Hăng-ri lần theo đường đặt bẫy, và ông cũng nhận thấy là luôn luôn có hai dấu chân.

Ngày thứ ba, hai người đến một cái bẫy tại đó có một con mèo rừng chân bị giữ chặt. Họ lại thấy chỗ con sói nhỏ ngồi trên tuyết, chờ cho bạn cắn chết con mèo rừng. Nhìn thấy những gì còn lại của con vật, bộ lông hoàn toàn rách nát không còn tí giá trị gì, anh người lai đỏ mặt, và tuôn ra tất cả cái vốn từ chửi rủa vừa bằng tiếng Anh vừa bằng tiếng Pháp.

Pôn Uây-man không nói gì nhiều về việc đó với người bạn đường, để khỏi làm anh bực mình thêm; ông càng thấy rõ là đằng sau hành động bất thường kia cũng có một lí do gì bí hiểm. Tại sao hai con vật lại chỉ quyết diệt mỗi giống mèo rừng. Đó là dấu hiệu của mối thù không đội trời chung gì?

Pôn Uây-man cảm thấy mình đặc biệt xúc động. Ông vốn yêu quý tất cả mọi muôn thú và vì lý do đó, không bao giờ ông mang súng theo người. Khi ông trông thấy anh người lai đặt mồi tẩm thuốc độc trên đường đi của hai con vật ăn trộm kia, tim ông như thắt lại. Và những ngày sau, khi thấy bã vẫn nguyên vẹn không suy chuyển, ông hết sức mừng rỡ. Một cái gì đó khiến ông thấy mến những con vật anh hùng, sống ngoài vòng pháp luật, chưa hề quen biêt đó, không lúc nào chúng bỏ lỡ dịp giao chiến với giống mèo rừng.

Trở về chòi, nhà động vật học vội ghi chép ngay những nhận xét trong ngày và những kết luận rút ra từ đó.

Một tối, ông nhìn Hăng-ri Lô-ti và hỏi đột ngột :
- Này anh Hăng-ri, có bao giờ anh thấy hối hận đã tàn sát nhiều súc vật như vậy không ?

Anh người lai nhìn vào mắt ông, lắc đầu, rồi nói :
- Đúng là trong đời tôi đã từng giết hàng nghìn hàng vạn con thú. Và tôi sẽ còn giết hàng nghìn hàng vạn con nữa mà không mảy may xúc động.

- Trong vùng Sơn Lâm có nhiều người như anh – Pôn Uây-man lại nói - Từ bao thế kỷ nay đều thế. Cũng như anh, họ gieo chết chóc, họ tiến hành cái có thể là cuộc chiến tranh giữa người và vật. Nhờ trời, họ chưa đạt được mục đích là tiêu diệt hoang thú ở khắp nơi. Văn mình của con người chưa len lỏi đến được những vùng núi non, rừng rú đầm lầy rộng hàng vạn dặm vuông này.

Có lẽ mãi mãi vẫn in rõ những dấu vết cũ. Tôi nói có lẽ … Vì ở ngay giữa vùng hoang vu, này nay mọc lên những làng xóm, đô thị. Anh có nghe nói đến Bắc Ba-tơn-phoóc không ?

- Có phải gần Mông-rê-an hay Kê-bếch không ? – Hăng-ri hỏi lại.

Uây-man mỉm cười, rút ở túi ra một tấm ảnh. Đó là chân dung một thiếu phụ.

- Không – ông đáp – Xích sang phía Tây nhiều kia, trong vùng Xa-cát-sơ-van. Cách đây bảy năm, hàng năm trong mùa săn, tôi thường đến đấy bắn gà rừng, sói đồng (1) và hươu nhài quạt. Dạo ấy chẳng có Bắc Ba-tơn-phoóc nào cả. Trên mấy mươi dặm vuông, chỉ có đồng cỏ tuyệt vời. Một cái chòi duy nhất dựng lên bên bờ sông Xa-cát-sơ-van, chính ở nơi này mọc lên Bắc Ba-tơn-phoóc. Tôi trú ngụ trong cái chòi đó. Một cô bé mười hai tuổi ở đấy với bố. Cô thường đi săn cùng với tôi. Khi tôi bắn chết một con gì, đôi khi cô khóc, và tôi lại chế giễu cô… Một đường tàu xuất hiện, rồi lại một đường tàu khác. Hai đường sắt gặp nhau, đúng ngay gần cái chòi. Thế là đột ngột một thành phố nhỏ mọc lên. Cách đây bảy năm, anh nghe rõ chứ, Hăng-ri, chỉ có một cái chòi. Cách đây hai năm thành phố đã có một nghìn tám trăm dân. Năm nay, lúc đi qua đó để đến đây, tôi thấy nó có năm nghìn dân. Trong hai năm nữa sẽ có mười nghìn …

Pôn Uây-man kéo một hơi thuốc rồi nói tiếp :

- Tại chỗ cái chòi, có ba ngân hàng, mỗi cái vốn đến bốn mươi triệu đô-la. Ban đêm, cách hai mươi dặm, người ta nhận thấy ánh điện của Bắc Ba-tơn-phóc. Thành phố có một trường tiểu học xây hết mưới vạn đô-la, một trường trung học, một nhà an dưỡng cấp tỉnh, một trại lính cứu hoả rất đẹp, hai cái chuông, một sở Lao Động và, không lâu nữa, sẽ có tầu điện chay. Nơi cách đây bảy năm chỉ có sói đồng, phải... Dân số tăng nhanh đến nỗi cuộc điều tra dân số vừa làm xong đã lạc hậu rồi. Trong năm năm nữa, xin nói với anh, sẽ là một thành phố hai vạn dân ! Và cô bé ở cái chòi kia, anh Hăng-ri ạ, ngày nay là một cô gái rất xinh, đang đến tưổi hai mươi. Bố mẹ cô... Lạy chúa, phải ! Bố mẹ cô lại giàu có Nhưng cái chính là chúng tôi sẽ phải thành hôn vào mùa xuân tới. Để làm vui lòng cô, tôi đã thôi không bắn chết một con thú nào nửa. Con vật cưối cùng tôi bắn là một con sói đồng cái, có con nhỏ. E-len giữ được mấy con sói con. Nàng nưôi và thuần hoá chúng. Vì vậy tôi yêu quý sói hơn tất cả mọi giống thú vùng Sơn Lâm. Và tôi hy vọng rằng hai con sói ta nói chuyện sẽ thoát khỏi bẫy và thuốc độc của anh.

Hăng-ri Lô-ti, anh người lai, ngơ ngác nhìn Pôn Uây-man. Ông đưa bức chân dung cho anh. Đấy là chân dung một cô gái, có gương mặt hiền hậu, đôi mắt trong sâu. Giáo sư thấy anh người lai vừa ngắm ảnh vừa cau trán, cắn môi.

- Tôi cũng vậy – anh cảm động nói – tôi cũng đã yêu, ông Pôn Uây-man ạ. Lô-vô-ca da đỏ của tôi đã chết được ba năm. Cô ấy cũng yêu quý thú rừng… Nhưng mấy con sói trời đánh này chúng xé nát hết tất cả mèo rừng của tôi thì tôi quyết phải lột da chúng nó! Nếu tôi không giết được chúng, thì chính chúng nó sẽ tống khứ tôi ra khỏi cái chòi này.

Lúc nào cũng bị ý nghĩ đó ám ảnh, một hôm Hăng-ri, bắt gặp được dấu chân mèo rừng mới, anh nhận thấy dấu chân này chui xuống dưới một cây đổ rất to, những cành chính chống đỡ thân cây lên cách mặt đất độ ba bốn mét, tạo thành một thứ hang không sao chui vào lọt. Tuyết xung quanh bị dẫm nát và có lông thỏ rải rác.

Anh người lai xoa xoa tay, nói rối rít :

- Tôi sẽ tóm được con mèo rừng ! Cùng với cả bọn sói !

Không chậm trễ, anh ta bắt tay vào bố trí bẫy.

Dưới cái cây đổ, anh đặt một cái bẫy thép thứ nhất có xích buộc dính vào một cành to. Rồi quanh cái bẫy đó, trong một vòng tròn độ ba mét, anh dàn năm bẫy nhỏ hơn, cũng có xích dằng vào những cành khác. Cuối cùng, anh để mồi lên cái bẫy to, sau khi đã nguỵ trang nó cũng như các cái khác bằng rêu và cành lá.

- Cái bẫy to và miếng mồi – anh giải thích cho Pôn Uây-man – dành cho con mèo rừng. Mấy cái bẫy xung quanh dành cho bọn sói. Lúc con mèo rừng bị sập rồi, và khi chúng đến để giao chiến với nó, nếu chúng không bị một trong số bẫy kia tóm lấy thì có hoạ chúng là quỉ sứ.

Suốt đêm hôm sau, Kazan và Sói Xám đi cách cái cây đổ độ một trăm bước. Khướu giác rất tinh của Sói Xám nhận ra ngay trong không khí có mùi người đã lảng vảng qua đấy, Nó chuyển ngay cái ý ám ảnh đó cho Kazan bằng cách tì mạnh vai thêm vào vai Kazan. Cả hai liền quay lại và, vừa nương mình theo chiều gió, tránh xa khỏi địa điểm nghi ngờ đó.

Hôm sau, thật đúng lúc, một đợt tuyết nhẹ rơi xuớng, phủ kín dấu chân và mùi hơi người.

Lại ba ngày và ba đêm giá rét, tràn ngập ánh sao, không có gì xảy ra cả. Hăng-ri vẫn không nản. Y giải thích cho giáo sư rõ là con mèo rừng này cũng thuộc loại săn mồi có phương pháp, hẳn nó còn bận lần theo và tìm kiếm những dấu vết mà chính nó đã phát hiện được trong tuần trước.

Ngày thứ năm, con mèo rừng quay lại cạnh cái cây đổ và đi thẳng đến miếng mồi mà nó nhận thấy trong khung cành lá. Cái bẫy răng nhọn sập ngay lại, không thương tiếc, cắn chặt một chân sau con vật.

Kazan và Sói Xám đang đi cách đấy độ một phần tư dặm, nhận được tiếng thép bật và tiếng xích loảng xoảng mà con mèo rừng cố vùng vẫy kéo.
Mười phút sau chúng đến.

Trời đêm trong sáng quá, nhiều sao quá, đến nỗi nếu không chờ bẫy chính Hăng-ri cũng đã đi săn.

Con mèo rừng, kiệt sức vì cố vùng vẫy, nằm sóng soài dán bụng xuống đất lúc Kazan và Sói Xám, chui qua vòm cây, xuất hiện. Như thường lệ Kazan giao chiến ngay, còn Sói Xám ngồi hơi lùi phía sau.

Con mèo rừng là một đấu sĩ lão luyện, sáu bảy tuổi đời, đang lúc saung sức và nặng cân. Móng vuốt nó dài đến hơn hai phân, khoằm khoằm như những con dao quắm. Giá đụng đầu với nó lúc nó tự do, chắc chắn Kazan đã phải trải qua mươi lăm phút ác liệt. Tuy bị giữ một chân, con mèo to vẫn còn là một địch thủ đáng gờm. Địa điểm chiến đấu quá hẹp đối với Kazan, rất khó vận động nên thêm phần bất lợi cho nó.

Thấy Kazan, con mèo rừng lùi lại, cùng với sợi xích và cái bẫy, để có chỗ lấy thế. Phải tấn công trực diện. Kazan làm đúng thế. Thình lình nó nhảy tới, hai đối thủ gặp nhau, vai chọi vai.

Nanh chó sói định đớp vào yết hầu mèo rừng nhưng hụt mất. Trước lúc bộ nanh định diễn lại miếng đòn thì mèo rừng, trong một cố gắng sôi sục, giật được chân ra khỏi gọng kìm thép. Sói Xám nghe được cái tiếng khủng khiếp của da thịt và các cơ bắp bị giằng xé ra. Kazan giận dữ gầm lên, nhảy lùi ngay về phía sau, vai đã bị rách toạt đến tận xương.

Đúng lúc ấy, nhờ số may của nó, cái bẫy thứ hai lại sập, cứu nó thoát một đòn tấn công thứ hai của con mèo rừng và cái chết chắc chắn. Hai hàm răng thép cắn chặt lấy một chân trước của con mèo to, thế là Kazan được thở phào nhẹ nhõm.

Tuy không nhìn thấy, nhưng qua tiếng rên tỉ đau đớn của Kazan, hiểu được cái thế hiểm nghèo của bạn, con sói mù vội luồn lách dưới vòm cây để đến ứng cứu.

Nó nhảy vào con mèo rừng và tức khắc rơi vào cái bẫy thứ ba : cái bẫy tàn bạo giữ chặt lấy nó và quật nó ngã sang một bên, vừa cắn đớp, vừa gầm gừ.
Kazan đã quay lại trận chiến, chờn vờn quanh con mèo rừng một lúc thì làm sập luôn cái bẫy thứ tư, nhưng nó thoát được, rồi cái bẫy thứ năm ngoạm vào một chân sau của nó. Lúc ấy đã quá nửa đêm.

Mãi cho đến tận sáng, trong cái hang cây đó, trên nền đất tuyết phủ là một cảnh hỗn loạn, vẫy vùng, gáo rống, của con sói cái, của con chó sói và của con mèo rừng, con nào cũng cố sức tự giải thoát khỏi bẫy và xích đang ghìm chặt chân chúng nó.

Khi trời đông chớm rạng, cả ba đều kiệt sức nằm vật ra thở hồng hộc, hàm bê bết máu me, chờ đợi con người và cái chết.

Hăng-ri Lô-ti và Pôn Uây-man đã dậy rất sớm. Đến gần cái cây đổ, anh người lai nhận ra trên tuyết hai dấu chân của Sói Xám và Kazan. Gương mặt đỏ của anh hồi hộp giật giật, sáng lên một niềm vui mãnh liệt.

Lúc hai người đến trước cái hang hiểm độc kia, họ đứng lại một lúc. Chính Hăng-ri cũng không lường đến một kết quả toàn vẹn như thế và anh chưa bao giờ thấy một cảnh tượng tương tự : hai sói một mèo rừng, cùng bị tóm một lúc, cả ba cùng bị ngoạm vào chân và xích giữ chặt.

Nhưng nhanh như chớp, bản năng thợ săn của Hăng-ri vùng dậy. hai con sói ở gần anh hơn, anh đã nâng súng lên để tì vào vai và nhả đạn vào óc Kazan.
Không kém nhanh, Pôn Uây-man nắm chặt lấy cánh tay hăng-ri. Anh tỏ vẻ ngạc nhiên :

- Khoan, Hăng-ri, đừng bắn! – ông thét lên – con này không phải sói. Anh nhìn xem ! Nó đã từng mang vòng. Cổ nó trầy da nên lông chưa mọc đủ. Nó là chó đấy.

Anh người lai hạ súng xuống nhìn chăm chú.

Trong thời gian đó, mắt nhà động vật học quay sang Sói Xám, con này nhìn thẳng vào ông, gầm gừ, nhe nanh, sẵn sàng cắn xé kẻ địch mà nó không trông thấy. Nơi lẽ ra là đôi mắt thì chỉ thấy một lớp da bị lông che gần kín.

Một tiếng kêu thốt lên từ đôi môi Uây-man :

- Nhìn xem ! Nhìn xem ! Hăng-ri ! Trời ơi, gì thế này ?

- Một con là chó, đã quay về với sói và đã trở lại tình trạng dã thú. Con kia đúng là Sói, hay đúng ra là sói cái …

- Và lại mù ! – Pôn Uây-man nói với một âm sắc thương hại.

- Phải rồi ! Mù ! – anh người lai trả lời, ngạc nhiên.

Anh định nâng súng lên lần nữa. Uây-man lại can thiệp.

- Đừng giết nó, Hăng-ri ! Tôi van anh. Hãy để chúng nó sống cho tôi. Anh cứ trị giá con mèo rừng đã bị chúng nó làm hỏng mất bộ lông đi. Thêm vào đó số tiền thưởng thường lệ về sói. Tôi xin trả tất cả. Còn sống, hai con vật đó có một giá trị không lường được đối với tôi. Một con chó chung sống với một con sói mù ! Thật là kỳ diệu, anh nghĩ xem !

Tay ông cứ giữ chặt lấy khẩu súng của Hăng-ri. Còn Hăng-ri thì không hiểu hết những lời ông nói nên cứ nghĩ bụng là ông hơi say.

Nhưng nhà động vật học mỗi lúc một sôi nổi hơn. Hai mắt ông hăm hở sáng ngời.

- Một con chó và một con sói cái mù, lấy nhau ! Thật là hiếm hoi hết chỗ nói và vô cùng thí vị ! Rồi đây, ở thành phố, khi đọc chuyện đó trong cuốn sách của tôi họ sẽ bảo là tôi bịa đặt hay là tôi điên. Nhưng tôi sẽ cung cấp đầy đủ bằng chứng. Ngay tại đây và ngay tức khắc, tôi sẽ chụp một loạt ảnh về cái cảnh lạ lùng trước mắt chúng ta. Sau đó anh cứ giết con mèo rừng. Nhưng tôi, tôi xin giữ lại con chó và con sói cái còn sống. Và tôi sẽ trả cho anh, Hăng-ri ạ, một trăm đô la mỗi con, đồng ý chứ ?

Anh người lai gật đầu.

Lập tức, giáo sư mở túi xách lấy máy ảnh ra và chuẩn bị ngắm.

Một bản đồng ca gầm gừ, của sói cái và mèo rừng chào đón tiếng lách tách của máy ảnh. Riêng Kazan không nhe nanh ra. Và nếu nó có lên gân, thì không phải là nó sợ mà vì một lần nữa nó nhìn nhận uy thế hơn hẳn của con người.

Sau khi chụp xong hai mươi kiểu ảnh, Pôn Uây-Man đến gần con chó sói và dịu dàng với nó. Dịu dàng đến nỗi Kazan tưởng như lại được nghe giọng nói của người đàn ông và người phụ nữ của cái chòi gỗ hoang trước đây.

Sau đó, Hăng-ri bắn một phát vào con mèo rừng, và Kazan vừa giằng xích vừa nhay xích, vừa gầm gừ rất dữ tợn trước cái xác kẻ thù đang quằn quại dẫy chết.

Tiếp đó, hai người lồng một sợi dây da rất chắc quanh cổ Kazan rồi tháo bẫy ra cho nó. Con chó sói để mặc cho làm và họ dắt nó về chòi. Lát sau, họ quay lại với một sợi dây chập ba và cũng làm như thế với con sói mù. Nó kiệt sức đến mức cũng không buồn chống cự nữa.

Thời gian còn hại trong ngày, Hăng-ri và Pôn Uây-Man dùng để đóng một cái chuồng to chắc, lấy những khúc thông non làm chấn song. Xong chuồng, họ nhốt cả hai con bị bắt vào đó.

Hai hôm sau, trong khi anh người lai đi cất bẫy thì Pôn Uây-Man ở chòi một mình, đánh bạo luồn tay qua song chuồng vuốt ve Kazan. Nó để yên cho ông vuốt. Hôm sau ông cho con chó sói một miếng thịt nai sống. Nó cũng ăn.

Nhưng với Sói Xám thì không được như thế. Vừa cảm thấy nhà động vật học đến gần, là nó vội nép xuống dưới bó cây người ta bỏ vào chuồng để làm ổ cho nó. Bản năng hoang thú đã dạy cho nó rằng con người là kẻ thù nguy hiểm nhất.

Tuy nhiên đối với nó, người này không đáng sợ tí nào. Ông ta không làm gì đau đớn cho nó và Kazan cũng không chút sợ hãi. Vì vậy chẳng mấy lúc thái độ sợ hãi ban đầu nhường chỗ cho một vẻ tò mò và sự thân thiện này càng tăng. Cuối cùng nó thò cái đầu mù ra khỏi mớ cành cây, hướng về phía ông Uây-man, hít hít không khí khi ông đứng trước chuồng cố gây hiện cảm với Kazan.

Nhưng nó không chịu ăn bất cứ một thứ gì. Uây-man dỗ dành nó với những miếng mỡ hươu, mỡ nai ngon nhất mà vẫn vô hiệu. Năm ngày, sáu ngày, bảy ngày trôi qua, nó vẫn không chịu ăn lấy một miếng gì. Cứ như vậy, mỗi ngày nó một gầy và người ta có thể đếm được xương sườn của nó.

Con vật sẽ chết mât – tối thứ bảy Hăng-ri Lô-ti nói với ông bạn – Nó nhất định nhịn đói đến chết. Muốn sống, nó cần phải có rừng, thịt thú và máu tươi. Nó đã hai ba tuổi, quá già để có thể văn minh hoá được nó.

Nói xong, anh người lai lẳng lặng đi nằm, mặc cho Pôn Uây-Man hoang mang lo lắng.

Đêm ấy, Uây-man thức rất khuya. Thoạt tiên ông viết một bức thư dài cho cô gái có khuôn mặt hiền hậu ở Bắc Ba-tơn-phoóc. Rồi ông thổi tắt đèn và qua ánh hồng của lò sưởi, ông tự hình dung ra trăm nghìn hình ảnh êm dịu về cô.

Ông thấy cô như hồi mới gặp lần đầu tiên, trong cái chòi hẻo lánh vùng Xa-cát-sơ-van, với một bím tóc dày óng ánh và trên đôi má ửng hồng tất cả vẻ tươi mát của nội cỏ.

Một thời gian rất lâu cô căm ghét ông, phải, căm ghét thật sự, vì cái thú bắn giết của ông. Rồi ảnh hưởng của cô đã hoàn toàn chuyển biến được ông và nhờ thế hôm nay ông biết ơn cô một cách vô cùng sâu sắc.

Ông đứng dậy khẽ mở cửa chòi. Theo bản năng, mắt ông quay về phía bầu trời xa, nơi có Bắc Ba-tơn-phoóc. Dưới ánh sao vằng vặc ông trôn thấy cái chuồng nhốt Kazan và Sói Xám.

Ông lắng nghe, văng vẳng có tiếng động. Sói Xám đang lẳng lặng gặm nhấm song nhà tù. Một lúc sau, ông nghe có tiếng rên rỉ nghẹn ngào. Gần giống như một tiếng thổn thức. Đấy là Kazan đang khóc cảnh từ nay không còn tự do.

Một cái rìu để tựa vào vách chòi. Uây-man nắm lấy rìu và thầm lặng mỉm cười. Ông đang nghĩ đến một tâm hồn khác, cách đấy hàng nghìn dặm, lúc này đang nhìn ông và hưởng ứng cử chỉ của ông.

Ông tiến đến bên chuồng thú, vung cái rìu thép lên. Mười nhát, mười hai nhát, bổ rất chắc. Thế là hai song gỗ thông gãy. Đoạn ông lùi lại.

Sói Xám đến bên lỗ hổng trước tiên và, dưới ánh trời sao, chui ra như một cái bóng.

Nhưng nó không chạy trốn ngay. Nó đứng chờ Kazan ở quãng rừng thưa dựng chòi.

Không để phải đợi lâu, Kazan cũng ra theo. Cả hai đều đứng đó một lúc, không nhúc nhích, hơi ngạc nhiên. Cuối cùng, chúng thong thả chạy xa dần, vai Sói Xám sát vào mạn sườn Kazan.

- Sóng đôi... – ông Uây-man lẩm bẩm – Suốt đời bên nhau, cho đến chết.


---------------------------

(1) một loại sói nhỏ
 
5,640
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Kazan (Ca-dăng) - James Oliver Curwood

CHƯƠNG XIV : TỬ THẦN ĐỎ


Kazan và Sói Xám chạy rất lâu theo hướng bắc và đến vùng gọi là vùng “Đáy Hồ”. Đúng lúc chúng đang ở đấy thì Giắc, giao liên của Công ty Vịnh Hơt-xân (1), đưa đến cho các bưu điện trong vùng những tin tức chính thức đầu tiên về thiên tai khủng khiếp : một trận dịch đậu mùa đang hoành hành trên vùng Sơn Lâm.

Mấy tuần nay nhiều tin đồn từ khắp nơi đưa đến. Thế rồi những tin đồn đó cứ rộng dần. Từ phía đông, phía tây và phía nam, tin tức nhân lên đến mức khắp nơi, trong những vùng hẻo lánh bao la, khách qua lại cho rằng Tử thần Đỏ, Hồng Họa đang theo dõi họ. Và không khí rùng rợn của một nỗi lo âu khủng khiếp tràn qua đó chẳng khác gì một trận cuồng phong thổi từ những vùng văn minh cuối cùng đến những chốn tận cùng xa thẳm nhất của Cánh Đồng Tuyết Trắng.

Mười chín năm trước, cũng những tin đồn như vậy đã loan truyền và Hồng Hoạ đã theo sau. Nỗi hãi hùng vẫn còn ghi lại trong lòng mọi người dân vùng Sơn Lâm, vì hàng mấy nghìn ngôi mộ không thánh giá, mà người ta phải tránh xa như một thứ ôn dịch, rải rác từ vịnh Giêm đến hồ A-ta-ba-xca (2), chứng nhận cho cái quyền cống vật mà thiên tai đòi hỏi lúc nó đi qua.

Trong những cuộc rong ruổi lang thang, Kazan và Sói Xám thường gặp những nấm mộ ảm đạm như vậy, và một bản năng bí mật, vượt cả hiểu biết của con người, không cần đến một giác quan nào khác, đã bảo cho chúng biết rằng dưới đó là cái chết. Cũng có thể, nhất là Sói Xám, do mù loà mà nhạy cảm hơn trước những hương trời khí đất, chúng trực tiếp nhận ra những điều mà mắt không nhìn thấy.

Chỉ biết rằng bao giờ cũng vẫn Sói Xám nhận ra đầu tiên sự có mặt của Hồng Hoạ.

Cùng với bạn, Kazan lần theo một đường bẫy vưa mới phát hiện được. Dấu chân dẫn nó đến đó đã mờ vì lâu rồi. Từ khá nhiều ngày, không một ai đi qua đấy. Trong cái bẫy thứ nhất, che khuất dưới những cây thông dày, chúng tìm thấy một con thỏ rừng thối ruỗng đến một nửa. ở một bẫy khác là bộ xương một con cáo, bị cú rỉa trơ trụi, còn lại một ít lông. Phần lớn bẫy đều sập cả. Các cái khác thì bị tuyết phủ. Kazan sục sạo từ bẫy này sang bẫy nọ tìm kiếm một con mồi còn sống để ăn mà không được.

Bên cạnh Kazan, Sói mù cảm thấy Tử thần đang xuất hiện. Nó cảm thấy Tử thần rùng mình trong không khí, bên trên mình nó, trên các ngọn thông. Nó phát hiện ra Tử thần trong từng cái bẫy mà nó với Kazan gặp. Và càng đi nó càng rên rỉ nhiều hơn, khẽ cắn vào hông Kazan lúc nào cũng chạy phía trước.

Cứ thế cả hai đến một khu rừng thưa, chỗ có một cái chòi. Đây là chòi của Ốt-tô, người săn thú.

Sói Xám dừng lại trước chòi và ngồi xuống, ngước bộ mặt mù lên nền trời xám. Rồi nó rống lên một tiếng rên rỉ thật dài. Thế là, suốt dọc sống lưng, lông Kazan bắt đầu dựng đứng cả lên. Và Kazan cũng ngồi xuống, cùng với Sói Xám hoà vang tiếng rống gửi cho Tử thần.

Đúng là Tử thần đang ở trong chòi. Trên nóc chòi cắm một cây sào làm bằng cành thông non, đầu sào vật vờ một dải vải đỏ. Đó là lá cờ báo hiệu Tử thần Đỏ, mà tất cả mọi người, từ vịnh Giêm đến hồ A-ta-ba-xca đều hiểu rõ ý nghĩa.

Nhà bẫy thú Ốt-tô, cũng như trăm nghìn anh hùng khác của vùng Bắc địa, trước khi nằm xuống, đã dựng cái tín hiệu đen tối kia.

Ngay trong đêm ấy, dưới ánh trăng giá lạnh, Kazan và Sói Xám lại tiếp tục cuộc hành trình, tránh xa cái chòi đó.

Từ thương điếm này đến thương điếm khác các giao liên buồn thảm đem đến tin tức về chết chóc. Một người xuất phát từ Hồ Nai, đã đi học hết Hồ Vô-la-xtôn(3), vượt qua mặt băng của Hồ A-ta-ba-xca và đến bưu trạm Đáy Hồ nói:

- Tử thần Đỏ cũng đã lan tràn vào bà con da đỏ, từ những người ở quanh vịnh Hơt-xân đến thổ dân Cơ-rê và Si-pơ-va, ở quãng giữa các đồn An-bô-ni và Sớc-xin. Nhưng tôi còn phải báo tin đi xa nữa, về phía tây.

Ba ngày sau một giao liên thứ hai từ đổn Sớc-xin đến, mang theo một công văn của tổng đại diện báo tin cho các nhân viên bưu trạm Đáy Hồ là họ phải chuẩn bị không chậm trễ trước Tử thần Đỏ.

Người nhận công văn đọc xong, mặt trắng bệch hơn cả tờ giấy y cầm trên tay.

- Thế nghĩa là – y nói – chúng ta phải đào huyệt! Đấy là những công việc chuẩn bị duy nhất có ích phải làm.

Y đọc to bức thư và tất cả những người còn khoẻ mạnh đều được chỉ định để đi loan báo, trên phạm vi của trạm, cho tất cả các bạn rải rác trong rừng.

Người ta vội vã đóng đai cương cho chó. Trên mỗi xe ra đi, ngoài thuốc men thông thường,còn để thêm một cuộn vải đỏ sẽ dùng làm tín hiệu của dịch bệnh và hãi hùng; bàn tay nào phụ trách việc cũng run lên bần bậc.

Sói Xám và Kazan gặp dấu vết của một trong những chiếc xe đó, trên mặt băng sông Hải Ly Xám, và cả hai cứ chạy theo suốt nửa dặm đường. Hôm sau chúng gặp một dấu vết thứ hai và hôm sau nữa, một dấu thứ ba.
Dấu này còn mới nguyên. Sói Xám nhe nanh gầm gừ to hơn như có một vật gì vô hình chích vào nó. Cùng lúc ấy gió thoảng đến cho đôi bạn một mùi khói cay cay.

Kazan và Sói Xám trèo lên một cái gò cạnh đấy. Từ trên, chúng trông thấy, phía dưới, một cái chỏi đang cháy bùng bùng, trong khi một chiếc xe trượt có cả chó đang khuất dần trong đám thông cùng với người đánh xe. Trong chòi có một người khác chết vì chứng bệnh trời giáng khủng khiếp đó và đang cháy cùng với cái chòi. Luật phương Bắc là thế đó!

Đứng trước dàm lửa thảm khốc đó, Sói Xám cứ đờ ra như một tảng đá trong khi một tiếng rên rỉ cuồn cuộn trong cổ họng Kazan. Rồi đột nhiên, chúng chạy trốn và chỉ dừng lại cách đấy đến mười dặm, trêm một cái đầm lầy đóng băng, đến đây chúng rúc vào những lùm cây dày rậm che kín cả đầm băng.

Những ngày, những tuần tiếp đó đánh dấu cho mùa đông năm 1910 như một trong những mùa động khủng khiếp nhất của lịch sử vùng Bắc địa. Hồng Hoạ cùng với cái đói, cái rét làm nghiêng hẳn cán cân về phía thần chết, đối với muông thú cũng như với con người, khiến không sao quên được chương sách này, ngay cả đối với những thế hệ mai sau.

Trên khu vựa đầm lầy, Kazan và Sói Xám đã tìm được một chỗ tốt trong cái thân rỗng một cây đổ. Một ổ nhỏ vừa xinh, lại rất kín, tránh được cả tuyết lẫn gió. Chính Sói Xám đã tìm ra, nên nó chui vào chiếm trước, nằm dán bụng thở hổn hển, một cách thoả mãn. Kazan chui vào sau.

Chúng tiếp tục sống bằng thỏ trắng, và gà gô-thông. Kazan rình bắt giồng gà gô này khi chúng vừa đặt chân xuống đất. Nó phải nhảy lên chộp trước khi chúng thấy nó đến gần.

Sói Xám đã thôi không buồn về cảnh mù của mình nữa, cũng thôi không dụi chân vào mắt và thôi không thút thít nhớ tiếc ánh mặt trời, nhớ tiếc ánh trăng vàng và ngàn sao vằng vặc. Khứu giác và thính giác của nó ngày càng trở nên nhạy bén. Nó có thể bắt được trong gió hơi một con nai miền bắc cách xa hàng hai dặm và đánh hơi được sự có mặt của người cách xa hơn nữa. Gặp đêm khuya thanh vắng, nó bắt được cả tiếng cá hương quẫy trong suối cách xa hàng nửa dặm.

Trong săn bắt, sự hỗ trợ của nó đã trở thành vô cùng quý báu đối với bạn. Chính nó đã phát hiện ra mồi và báo cho Kazan biết. Về mặt này, từ nay Kazan hoàn toàn dựa vào nó. Mặc dầu mù loà, nó cũng thử săn đuổi những thú do nó phát hiện. Nhưng luôn luôn nó thất bại.

Qua những cuộc săn bắt đó, Kazan không thể bỏ Sói Xám nữa, mà Sói Xám thì đã dễ dàng nhận thức thấy nếu thiếu Kazan nó cũng không sao tồn tại nổi.

Đối với nó, người bạn đường của nó là sự sống còn. Vì vậy nó không ngừng mơn trớn chăm sóc bạn. Gặp lúc bực tức, nếu Kazan có gầm gừ, nó cũng không nhe nanh đáp lại, mà chỉ nhẫn nhục cúi đầu. Những lúc Kazan đi về, nó thè lưỡi ấm liếm cho tan băng bám vào móng chân dưới lớp lông dày.

Một hôm, Kazan bị dằm gỗ cắm vào gan bàn chân, suốt ngày nó liếm vào vết thương cho chảy máu ra và rút bật được cái dằm. Những lúc chúng nằm nghỉ, bao giờ Sói Xám cũng gác cái đầu đẹp đẽ nhưng mù loà lên lưng hoặc cổ Kazan.

Xung quanh chúng, thú rừng nhỏ rất nhiều và trong thân cây rất ấm. Ít khi chúng mạo hiểm, dù để dăn bắt, đi quá giới hạn của vùng đầm lầy mến khách này. Dưới kia thỉnh thoảng, trong những cánh đồng bao la và trên những đỉnh núi xa xăm, quả chúng có nghe rõ tiếng sói đuổi mồi. Nhưng nghe tiếng gọi bầy, chúng không rung động nữa, và lòng khao khát nhập đàn cũng không còn nữa.

Một hôm, do mải mê đi hơi quá xa hơn thường lệ, chúng đi hết một cánh đồng vừa bị cháy mùa hè trước, trèo lên một ngọn núi trước mặt, rồi lại xuống đến một cánh đồng thứ hai.

ở đây, Sói Xám đứng lại để đánh hơi, Kazan chăm chú và băn khoăn quan sát bạn một lúc theo thói quen. Nhưng gần như ngay lúc ấy nó hiểu tại sao hai tai Sói Xám lại cụp xuống đột ngột và cảm thấy bạn đang ngồi xuống. Đây không phải có thú rừng đến gần. Mà một mùi khác, mùi người đã đập vào mũi chúng.

Hai con vật như do dự một lúc. Sói Xám đến đứng phía sau Kazan, như yêu cầu che chở và rên ư ử. Kazan dẫn đầu. Đi được gần ba trăm thước, đến một lùm thông non, chúng gặp một cái chòi da đỏ tuyết phủ gần kín.

Chòi bỏ không. Không có người và lửa ấm. Mùi người đến chính từ đây.

Chân cứng lại, lông rung rung, Kazan đến gần cửa chòi. Nó nhìn vào trong. Giữa chòi, trên lớp tro tàn của một đống lửa lăn lóc thân hình một đứa bé da đỏ, bọc trong một cái chăn cháy dở. Kazan có thể trông thấy đôi bàn chân nhỏ xíu, trong đôi giày bé tí. Thân hình như khô đét và phải lâu lắm mới nhận được mùi.

Kazan rụt đầu lại và thấy phía sau, Sói Xám đang rê mũi xunh quanh một nấm mộ dài, mà hình dáng lỳ lạ còn nổi lên dưới tuyết. Sói Xám dè dặt đi vòng quanh nấm mộ ba lần, rồi ngồi xuống cách xa một tí.

Đến lượt Kazan cũng đến gần đống đất ngửi ngửi.

Dưới mô tuyết lùm lùm, cũng như trong chòi, là chết chóc, Thiên tai đỏ đã đến tận đây.

Rạp đuôi,cúp tai, cả đôi lảng xa, bụng dán sát đất, mãi cho đến lúc lùm thông khuất hẳn. Về đến hang ổ trên đầm lầy, Kazan và Sói Xám mới dừng lại.

Suốt đêm hôm sau, trăng rằm hiện ra như một cái đĩa mờ, viền thêm quầng đỏ. Đây là dấu hiệu một đợt rét khủng khiếp.

Tử thần Đỏ bao giờ cũng đi đôi với những đợt rét dữ dội. Nhiệt độ càng giảm, sự tàn phá cùa dịch bệnh càng rùng rợn.

Suốt đêm rét mỗi lúc một tăng. Rét xuyên vào đến tận gốc cây hang ổ của Kazan và Sói Xám khiến chúng càng phải nằm sát vào nhau.

Mỗi sáng, vào quãng tám giờ, hai con vật đánh liều ra khỏi hang. Nhiệt kế phải ghi đến năm mươi độ âm. Trong các cành thông, gà gô co quắp lại thành những hòn cầu lông vũ, và chúng cố tránh xuống đất. Những chú thỏ trắng cứ nắm chúi tận trong đáy hang.

Kazan và Sói Xám không thể lần mò được một dấu vết nào cả và, sau nửa giờ săn kiếm không kết quả, đành quay về hốc cây của chúng.

Hai ba hôm trước, Kazan có chôn dưới tuyết, như giống chó thường làm, một nửa con thỏ ăn dở. Nó bới lên và chia sẻ số thịt băng giá với Sói Xám.

Trong ngày, nhiệt kế tiếp tục xuống. Đêm đó trời trong không một gợn mây, mặt trăng trắng như một quả cầu điện, muôn sao lấp lánh kín trời. Nhiệt độ lại sụt thêm mười độ nữa và, trong thiên nhiên, mọi vật đều hoàn toàn bất động. Cả đến những giống thú đầy lông như chồn nâu, chồn trắng và mèo rừng nữa, cũng không bao giờ ra khỏi hang ổ trong những đêm tương tự, và hôm sau, các nhà bẫy thú bao giờ cũng thấy bẫy của họ còn nguyên, không bị đụng chạm.

Cái đói chúng đang chịu đựng vẫn chưa đủ để lôi Sói Xám và Kazan ra khỏi hang ổ. Sáng rõ, chúng vẫn nằm trong hốc cây ấm. Làm như vậy là đúng. Vì ở ngoài đến con vật bé nhỏ nhất chúng cũng chẳng gặp được.
Trời đã sáng mà chẳng có một thay đổi gì về cai rét khủng khiếp đang hoành hành. Quãng trưa, Kazan để Sói Xám nằm lại trong hốc cây, quyết định đi săn một mình.

Ba phần tư chó trong dòng máu khiến nó cần ăn hơn cô bạn. Với Sói Xám ngược lại, cũng như với tất cả anh em họ nhà sói của nó, thiên nhiên sáng suốt đã phú cho một cái dạ dày có khả năng chịu đựng đói khát. Bình thường nó có thể nhịn ăn một cách dễ dàng mười lăm hôm. Với sáu mươi độ âm, sức lực mất rất nhanh, nó vẫn có thể nhịn đói thêm tám hay mười ngày nữa. Vậy mà từ lúc nó ăn xong miếng thịt thỏ lạnh cuối cùng, mới có ba mươi giờ, cho nên nó thích nằm lại trong ổ ấm hơn.

Thế là đói quá, Kazan phải lo sục sạo tất cả các bụi cây, lùm rậm. Tuyết rơi nhè nhẹ, lăng tăng như mưa đá, và nó chỉ phát hiện được dấu vết của mỗi một con chồn trắng mà không sao tóm được.

Dưới một cây khô, ở cửa một cái hang, nó ngửi thấy mùi thỏ thơm. Nhưng con thỏ cũng yên trí trong hốc sâu, như lũ gà gô trên các cành cây. Sau một giờ đào bới mặt đất băng giá chẳng ích gì, Kazan đành bỏ cuộc.
Sau ba giờ săn bắt, nó mệt nhoài quay về Sói Xám. Trong lúc cô bạn, nhờ bản năng tự tồn khôn ngoan của Sơn Lâm trong người, tiết kiệm được sức sống của mình, thì Kazan đã tiêu phí một cách vô ích và càng thấy đói hơn bao giờ hết.

Khi đêm tối trở về, và trên nền trời trăng lại nhô lên sáng ngời, Kazan lại tiến hành cuộc săn bắt. Hết tỉ tê rên rỉ, giả vờ ra đi, rồi lại quay về, nó cố tìm cách lôi kéo Sói Xám cùng đi. Nhưng hai tai cúp chếch xuống đôi mắt mù, Sói Xám vẫn nhất quyết không xê dịch.

Nhiệt độ vẫn tụt mãi, đạt đến quãng sáu mươi lăm, bảy mươi độ âm cộng thêm ngọn gió cắt thịt mỗi lúc một mạnh bao giờ cũng theo sau cái rét. Người nào đứng ngoài trời cũng đến gục chết. Nửa đêm, Kazan đành một lần nữa bỏ cuộc trở về hang.

Gió lốc càng cuốn xoát tàn nhẫn. Bám trên gốc cây khô, Kazan bật lên những tiếng rên rỉ thảm thiết, rồi chốc chốc lại im lặng, chốc chốc lại rống lên xé tai, nghe rất dữ tợn và vang rất xa.

Đó là dấu hiệu báo trước cơn bão phương Bắc từ Bắc Cực thổi đến vùng Ba-ren.

Cùng với bình minh, cơn bão bắc nổi lên với tất cả sức hung hãn của nó. Kazan và Sói Xám, nằm sát vào nhau, run cầm cập giữa cảnh gầm rú dữ dội. Có lúc Kazan cố thò đầu và vai ra ngoài, nhưng lập tức nó bị hất trở lại.

Tất cả muông thú vùng Sơn Lâm, tất cả những gì có sức sống ở đấy, đều rúc sâu thêm vào trong hang ổ.
Cuộc chấn động thời tiết này, dù ác liệt và kéo dài đến mấy, những thú lông dày cũng vẫn là giống ít lo ngại nhất. Vì ở trong hang ổ, chúng thường tích trữ cẩn thận thức ăn trong mùa nắng ấm.

Sói và chồn đều rúc xuống dưới các cây đổ hoặc trong các hang núi. Giống có cánh thì tránh nấp, gặp chăng hay chớ, trong các cành thông hoặc đào những hốc nhỏ trong các đụn tuyết, phía khuất gió. Giống cú, mình toàn lông, là giống ít sợ lạnh nhất trong các loài chim.

Nhưng đối với những thú lớn có sừng và móng guốc thì bão Bắc là tai hoạ ác nghiệt nhất.

Tuần lộc, nai miền bắc, nai nhài quạt, vì thân hình to cao, không thể chui vào các kẽ núi. Mỗi khi gặp bão ngay giữa đồng trống, cách tốt nhất của chúng là nằm nấp vào một đụn tuyết nào đấy, và mặc cho các bông tuyết phủ kín hoàn toàn trên lớp da bảo vệ.

Nhưng chúng cũng không thể trốn tránh lâu bằng cái kiểu tự nguyện chôn vùi ấy được. Vì còn phải ăn. Mùa đông, trong hai mươi bốn giờ, thì hai cái hàm nai nhài quạt phải hoạt động suốt mười tám giờ nó mới khỏi chết đói. Cái dạ dày to lớn của nó đòi hỏi số lượngn và phải ngốn ngấu không nghỉ; mỗi ngày nó cần hai hay ba gánh thức ăn. Và công việc nhai nhá trên ngọn các bụi rậm, một khối lượng như thế về cành non và búp non, đòi hỏi rất nhiều thời gian. Giống nai miền bắc cũng đòi hỏi gần như vậy. Giống tuần lộc trong bộ ba này, dễ thoả mãn hơn cả.

Suốt ba ngày đêm, bão lồng lộn điên cuồng. Trong đêm thứ ba, gió lại kéo thêm một trận tuyết dày, to bông, phủ kín mặt đất, cao đến năm sáu phân và dồn đống thành những đụn rất to. Người da đỏ gọi đấy là “tuyết nặng” nghĩa là thứ tuyết hình thành như một tấm áo bằng chì, dưới lớp áo đó hàng nghìn hàng vạn thỏ và các giống thú nhỏ đều chết ngạt.

Sang ngày thứ tư, Kazan và Sói Xám đánh liều ra khỏi hang. Gió đã lặng, tuyết không rơi nữa. Một tấm khăn liệm trắng ngần bao la, bất tận, phủ lên khắp vùng Bắc Địa. Rét vẫn còn rất đậm.

Cũng như Tử thần Đỏ đã hoàn thành việc sát hại con người, giờ đây những ngày đói rét đang đến với dã thú và sẽ tiêu diệt chúng nó.


------------------------------------

(1)Công ty Vịnh Hơt-xân, là một công ty Thương mại, quản lý khắp vùng Bắc địa, những trạm bưu điện và những thương điếm đến tận các vùng cực bắc.

(2)Vịnh Giêm là chỗ lõm cực nam của Vịnh Hơt-xân. Hồ A-ta-ba-xca nằm cách quãng 1000 cây số về phía tây nam giữa vĩ tuyến 60 và vòng đai bắc cực. Đáy Hồ nằm trên bờ bắc của hồ A-ta-ba-xca.

(3)Hồ Nai, Hồ Vô-la-xtôn, đồn An-bô-ni và đồn Sớc-xin đều ở phía nam Hồ A-ta-ba-xca.
 
5,640
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Kazan (Ca-dăng) - James Oliver Curwood

Chương XV. NẠN ĐÓI


Kazan và Sói Xám chỉ dám ra ngoài vào ngày thứ tự Gió và tuyết đã ngừng, và toàn bộ cảnh vật như được phủ lên một tấm khăn liệm trắng băng giá.

Dịch bệnh đã tàn sát nhiều người sống trong vùng. Và giờ đây, đến lượt những con thú hoang biết đến nạn đói và chết chóc.

Đã có lúc, chính xác là một trăm bốn mươi giờ Kazan và bạn nó chưa có tí gì vào bụng. Sói.Xám có một cảm giác khó chịu ngày càng tăng, nó thấy mình yếu dần trong khi bạn nó thì gần lả. Sau sáu ngày sáu đêm nhịn đói, xương sườn chúng nhô ra và hông thì lép kẹp, hai mắt đỏ ngầu của Kazan chỉ còn là hai khe bé tí.

Cuối cùng thì Sói Xám cũng đồng ý đi theo khi Kazan lại muốn đánh bạo ra đi trên "tuyết nặng". Lòng đầy hy vọng, chúng lại lên đường đi săn dưới cái lạnh khủng khiếp. Thoạt đầu, chúng sục sạo những vùng lân cận cái cây chết nơi luôn có rất nhiều thỏ... Nhưng không tìm thấy một dấu vết, một hơi hám nào, chúng mở rộng vòng tìm kiếm. Chúng chỉ nhìn thấy, đó là tất cả, một con cú tuyết đậu vắt vẻo trên một ngọn thông.

Kazan liền nhớ đến căn chòi - một nơi với nó luôn đồng nghĩa với lửa ấm và thức ăn. Quả vậy, không xa đó, ở phía bên kia của quả đồi, có nơi người sinh sống mà chúng đã đánh hơi được cách đấy không lâu.

Nó liền nhắm thẳng đỉnh đồi phóng đến, Sói Xám bám theo gót. Từ lúc ấy, Kazan vẫn săn lùng nhưng không tin tưởng, nó cúi gằm tiến bước, cái đuôi rậm kéo lê trên tuyết. Không có gì ngoài hình ảnh căn lều trong đầu nó. Đó là hy vọng cuối cùng. Nhưng Sói Xám vẫn cảnh giác, cả tứ chi đều run rẩy, giờ đây nó đang vểnh chiếc mõm xám gầy guộc lên để hít kỹ hơn những gì cơn gió đưa đến mũi.

Và bỗng nhiên, chúng nghe thấy một tiếng động từ xa vọng đến. Chúng vừa rên rỉ vừa lao vội về hướng ấy, đối với Sói Xám, mùi càng lúc càng rõ hơn và chẳng bao lâu, Kazan cũng đánh hơi thấy. Đó không phải là mùi của thỏ hay gà gô mà là của một con thú to hơn. Chúng bắt đầu bước thận trọng hơn, đi theo hướng gió. Hệ thực vật đầm lầy càng rậm rạp hơn và rừng lại dày đặc hơn...

Cách khoảng một trăm mét trước mặt, chúng nghe thấy tiếng sừng chạm vào nhau chan chát.

Mười giây sau, chúng đến đỉnh một đụn tuyết và Kazan nằm dán bụng xuống đó.

Giữa khu rừng thưa, toàn bộ cỏ non đã bị gặm nhẵn, bao nhiêu bụi rậm đều biến thành bằng địa, có một bầy nai nhài quạt. Tất cả có sáu con, ba cái, một con non một tuổi và hai con đực. Hai con này đang quần nhau trong một cuộc đọ sức quyết liệt, còn ba con cái đứng nhìn.

Con đực tơ mới lớn lên, như một con bò mộng lực lưỡng, lông bóng nhẫy đang độ sung sức của bốn tuổi đời, mang trên đầu một đôi sừng dày, chưa phát triển đầy đủ, nhưng nếu có kém chiều to rộng, thì lại có ưu thế là cứng và nhọn. Trong trận bão những ngày vừa qua, nó đã đưa cả bầy gồm ba con cái, một con một tuổi và nó là đầu đàn, đến trú trong khu rừng thông thích hợp này.

Tại đây, con đực thứ hai, già hơn, đã đến nhập đàn trong lúc đang đêm, nó cũng bị bão xua đuổi.

Con nai già, tuổi gấp bốn và nặng gấp đôi con nai tơ. Bộ gạc đồ sộ, dễ dsợ, không cân đều, xoè ra như hai nhài quạt đầy mấu đủ nói lên tuổi tác của nó. Quả là một chiếcn sĩ lão thành đã từng vào ra trăm trận. Chonên nó không ngần ngại giao chiến với tay địch thủ trẻ, để cướp đoạt vợ con và tổ ấm của địch thủ. Từlúc bình minh, hai đối thủ đã bao lần giao chiến. Mặt tuyết bị quần nát xung quanh lênh láng máu đỏ. Và mùi máu đang xông lên trước mũi Kazan và Sói Xám, chúng nó hít lấy hít để. Những tiếng lạ lùng cuồn cuộn trong cuống họng, chúng hết liếm môi lại liếm mép.

Hai chiến sĩ đứng kia, trán cúi gằm, đầu giao sát vào nhau. Con nai già vẫn chưa thắng trận. Nó có ưu thế về kinh nghiệm chiến đấu, về trọng lượng, về sức khoẻ già dặn và bộ gạc đồ sộ. Con nai tơ lại có cái thế tuổi trẻ và dẻo dai. Hông nó không phập phồng như hông con nai già mà lỗ mũi cứ phì phò. Rỗng tuếch như hai miệng kèn đồng.

Rồi, như theo hiệu lệnh của một đấng vô hình, hai con vật lùi lại trên đấu trường để lấy thế, và cuộc chiến lại tiếp tục.

Chín trăm cân, vừa thịt vừa xương của con nai già trong nháy mắt, lao vào đối thủ trẻ. Con này nhanh nhẹn vươn thẳng người lên và lần thứ hai mươi, hai bộ gạc lại giao nhau. Cách xa hàng nửa dặm còn có thể nghe được tiếng chan chát của những bộ sừng đồ sộ và những tiếng răng rắc tiếp theo.

Trong khi sức lực con đực già dường như giảm sút thì có thể nói là sức lực con nai tơ càng chiến đấu càng tăng. Biết là cuộc chiến sắp kết thúc, nó càng quyết tâm, càng dốc sức và càng cố gắng.

Kazan và Sói Xám bỗng nghe rắc một tiếng rất gọn, như khi ta bẻ cành cây bằng đầu gối. Lúc ấy là tháng hai, thời kỳ thú có sừng bắt đầu thay gạc, các con đực già trút gạc trước. Hoàn cảnh đó quyết định thắng bại.

Một bên gạc đồ sộ của con nai già long khỏi sọ và rơi xuống đấu trường lênh láng máu. Lát sau, mười phân sừng, sắc như một mũi dao lá trúc cắm phập vào vai nó. Hoảng loạn, con nai già mất hét cả hy vọng chiến thắng. Nó lùi dần, lùi dần, bốn chân lảo đảo, trong khi đối thủ thắng trận cứ xông xáo tiếp tục đâm xỉa vào cổ, vào vai nó, máu trào ra như suối.

Cuối cùng nó thoát ra được và quay lưng phòng như bay xuyên qua khu rừng. Con nai tơ nhìn đối thủ chạy trốn, không thèm rượt theo. Nó đứng hồi lâu lắc lắc cái đầu, hông phập phồng, mũi giãn rộng. Rồi nó thong thả quay lại với bầy nai cái, nai con, suốt thời gian đó vẫn không nhúc nhích.

Đối với kẻ chiến thắng và gia đình nó, Kazan và Sói Xám run bần bật không dám động vào. Từ chỗ nấp chúng đã nhìn thấy trước mắt, trên chiến trường, thịt tươi máu đỏ và một thèm muốn mãnh liệt xâm chiếm chúng, thúc giục chúng phải nếm ăn kỳ được. Chúng rón rén lùi dần, lùi dần, rồi thèm khát như điên như dại, cắm đầu chạy theo con đường máu của con nai già để lại phía sau. Thèm đói cào xé ruột gan quá thể, Kazan quên mất cả Sói Xám, vội lao trước theo vết nai, dãi nhớt ròng ròng, mạch máu nóng như lửa, hai mắt đỏ ngầu muốn lòi ra khỏi đầu.

Nhưng Sói Xám không cần đến nó dẫn dắt nữa. Rà mũi theo dấu vết máu tươi, nó cứ chạy, chạy mãi theo gót Kazan, cũng nhanh như thể mắt không bị che kín trước ánh sáng trời.

Được quãng nửa dặm thì chúng đuổi kịp con nai già. Anh chàng dừng lại sau một lùm thụ hương và đứng sừng sững, bất động, giữa một vũng máu cứ loang rộng mãi trên mặt tuyết. Hai mạn sườn, phồng lên xẹp xuống, tiếp tục phì phà phì phò. Cái đầu đồ sộ, thô kệch vì chỉ còn mỗi một sừng, gục xuống. Hai lỗ mũi máu chảy ròng ròng. Nhưng, dù kiệt sức như vậy, nó vẫn hùng tráng và một bầy sói, trong hoàn cảnh bình thường, cũng chưa chắc đã dám tấn công nó.

Kazan không chút do dự. Nó rống lên một tiếng rất dữ tợn, nhảy tới, cắm luôn hàm răng vào lớp da dày trên cuống họng con nai khổng lồ. Rồi nó tuột xuống đất, lùi lại độ hai mươi bước, để lập tức tấn công tiếp.

Lần này con nai già, với cái gạc nhài quạt duy nhất, xốc được Kazan, hất nó lên trời, qua đầu, rơi vật ra sau, gần chết.

Nhưng bao giờ Sói Xám cũng đến tiếp sức kịp thời. Nó đã bò đến phía sau con nai già và, tuy mù, đã ngoạm được vào nhượng chân kẻ địch vài hàng nanh sắc như dao.

Con vật giãy dụa vừa lắc vừa đạp thật khoẻ cố buộc Sói Xám phải nhả ra. Nhưng Sói Xám vẫn bám chặt. Trong khi ấy Kazan tấn công từ một bên và cuối cùng khi con nai già giãy ra được thì cũng là để chịu thua trận thứ hai và tìm chỗ lẩn tránh khác.

Kazan và Sói Xám, từ lúc này không hoài công liều lĩnh nữa, cứ bám sát phía sau con nai chỉ còn lê lết được thôi. Từ cuống họng và bên hông bị rách toạc máu chảy ròng ròng. Chân trái bị Sói Xám cắn đứt mất gân, nó khập khiễng một cách đau đớn.

Sau mười lăm phút, nó dừng lại, nhọc nhằn ngẩng cái đầu nặng nề lên và đưa mắt nhìn quanh một lượt. Rồi lại gục đầu xuống. Còn đâu viên chúa kiêu hùng của những vùng hoang vắng bao la, hai mươi năm chưa hề chiến bại. Toàn thân nó đổ xuống, và trong đôi mắt mờ dại đã biến mất vẻ thách thức.

Hơi thở của nó chỉ còn là một tiếng thở dốc nặng nề đứt quãng. Mũi sừng nhọn của con nai tơ đã xuyên vào đến tận phổi. Điều ấy, một tay thợ săn có chút ít kinh nghiệm hiểu ngay, nên Sói Xám cũng không lầm được. Cùng với Kazan, nó cứ bước vòng quanh vị chúa Sơn Lâm cũ, chờ đợi thời cơ nó quỵ xuống.

Tuy vậy thời cơ đó không đến ngay tức khắc. Một lần, hai lần, mười lần, hai mươi lần, đôi bạn đói mềm vẫn vẽ mãi cái vòng háo hức. Ở giữa vòng, con nai mộng già cứ lấy mình làm trục xoay mãi, mắt nhìn theo hia địch thủ.

Đến giữa trưa, cái trò ấy vẫn tiếp diễn. Hai mươi vòng dưới chân Sói Xám và Kazan đã thành một trăm hai trăm và hơn thế nữa. Do cái rét mỗi lúc một tăng cùng với mặt trời ngả bóng, cái vệt tròn, vạch ra và không ngừng nén chặt bởi tám cái chân của con chó sói và sói mù, trở thành như một lưỡi dao sáng loáng bằng băng đá, trong lúc đó máu con nai già cứ trào ra, trào ra, trào ra mãi.

Như biết bao trang khác không được người biết đến, đây là một trang đẫm máu của cuộc sống Sơn Lâm đang kết thúc; một cuộc đấu tranh qua đó kẻ yếu phải chết, để duy trì sự tồn tại của kẻ mạnh.

Đã đến cái giờ phút mà đứng giữa vòng chết, không khoan nhượng, kiên trì của Sói Xám và Kazan, con nai già không quay nữa. Sói Xám và Kazan hiểu ngay đó là đoạn kết thúc, cũng dừng lại, không bước vòng quanh nữa. Chúng rời khỏi vòng tuyết nén chặt, lùi lại một tí và nằm xuống chờ dưới một gốc thông thấp.

Con quái vật thua trận vẫn đứng rất lâu như trồng tại chỗ, rồi thong thả khuỵu dần, chân sau gập lại. Rồi, cuối cùng, hộc lên một tiếng khản đặc, bị máu là cho tắc nghẹn, nó đổ gục xuống.

Kazan và Sói Xám lại dè dặt vẽ lại vòng tròn, thắt dần, thắt dần, để tiến tí một, tí một, đến gần nạn nhân. Khi đôi bạn đã vào sát, con nai mộng to cố vùng lên lần cuối cùng nhưng không nổi. Nó lại ngã vật xuống.

Sói Xám ngồi xuống hắt lên không trung vắng lạnh đang bị nạn đói hoành hành, một tiếng sủa chiến thắng hào hùng.

Đối với nó và Kazan, những ngày đói khát thế là kết thúc.
 
5,640
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Kazan (Ca-dăng) - James Oliver Curwood

Chương XVI. TRANH ĂN


Sau cái chết của con nai, vừa đúng lúc để nó khỏi chết rét và chết đói, Kazan kiệt quệ, nằm xoài ra trên mặt tuyết lai láng máu. Nó không còn đủ hơi sức để cho đôi hàm hoạt động nữa.

Sói Xám trái lại, với sức dẻo dai hơn hẳn của nòi giống, nhảy bổ vào cái xác to lớn và đã bắt đầu cắn xé điên cuồng vào lớp da dày ở cổ, để cho lòi lớp thịt non ra.

Xong việc, nó không ăn vội mà chạy đến bên Kazan, vừa khẽ rên rỉ vừa lấy mõm hít hít và dùng vai đẩy bạn. Kazan đứng lên cùng với Sói Xám đến bên chỗ thịt tươi, bấy giờ cả hai mới phè phỡn một bữa ăn ê hề.

Mãi đến lúc tia sáng nhợt nhạt cuối cùng của ngày phương bắc chìm vào bóng đêm, chúng mới rời khỏi đống mồi. Hai con no đến tận mõm và hai bên hông của chúng lại căng phình.

Gió đã yếu. Vài đám mây bập bềnh trong ngày, lúc này đã tan và ánh trăng lại vằng vặc soi sáng trời đêm.

Hoà vào ánh sáng thanh bình của trăng, chẳng mấy lúc ánh sáng run rẩy của bình minh phương bắc toả rộng trên trời, về hướng địa cực.

Tiếng tít đơn điệu tựa tiếng thép của xe trượt chạy trên nền tuyết, vẳng nhẹ đến tai Kazan và Sói Xám đang ngủ mê mệt.

Thoạt nghe cái tiếng bí mật đó của bầu trời phương bắc, chúng thôi không ngủ, đứng ngay dậy nghi hoặc và giỏng tai cảnh giác.

Chúng thong thả đến bên đống mồi giết được. Chúng đã cùng nhau chiến đấu để hạ được nó và thừa biết nó thuộc về chúng chỉ là nhờ vào luật nanh vuốt. Đó là luật Sơn Lâm mà chúng phải chiến đấu để duy trì. Giá vào lúc săn đuổi dễ dàng thì chẳng phải bảo chúng đã đi tiếp con đường của mình dưới ánh trăng sao. Nhưng bao ngày nhịn dài và bao đêm đói rét đã dạy chúng phải lo xa.

Nỗi lo sợ của chúng không phải là không có căn cứ. Lợi dụng cảnh đẹp thanh bình của trời đêm sau bao nhiêu đêm khủng khiếp thế, hàng nghìn, hàng vạn sinh vật đói khát của Sơn Lâm đều ra khỏi hang ổ để tìm miếng ăn. Trên một nghìn tám trăm dặm từ đông sang tây, trên hàng dặm từ nam lên bắc, từng đoàn nh ững convật gầy giơ xương, bụng lép kẹp, lên đường đi săn bắt, giữa đêm khuya vằng vặc.

Bản năng báo cho Kazan và Sói Xám biết là cuộc săn bắt lớn này cuả tạo hoá đã bắt đầu, và không một chút nào chúng ngừng cảnh giới. Nằm nấp torng bụi rậm, chúng quan sát, Sói Xám liếm liếm đầu Kazan.

Thình lình chúng giật mình và cơ bắp cứng lại. Một cái gì sống động đã đi qua gần chúng, một cái trông thấy được, mà Sói Xám không nghe thấy được nhưng chúng thoáng nhận ra trong không khí.

Đấy là một con cú trắng to, bí mật như một bóng đen, không nắm được, và lặng lẽ như một bông tuyết, đã sà xuống trong không trung.

Kazan trông thấy con vật có cánh sà xuống trên vai con nai già. Nhanh như chớp, nó ra khỏi bụi rậm, có Sói Xám theo sau và gừ lên một tiếng giận dữ, nhảy bổ vào tên trộm, mồm há hốc. Nhưng mõm nó đớp vào không khí. Nó nhảy quá xa, nên khi quay lại thì con cú đã bay mất.

Nó đi vòng quanh con nai, lông dựng cả lên như bàn chải, mắt mở to dữ tợn, gầm gừ với không gian bình thản. Hai hàm răng lập cập hướng về một kẻ thù vô hình, nó ngồi xuống trước con đường lênh láng máu mà khi đến đây để chết con nai đã để lại trong rừng. Bản năng báo với nó rằng bọn trộm sẽ theo đó mà đến.

Đêm hôm ấy, chỗ nào cũng toàn chồn trắng, nhanh như cắt nhảy vòng dưới ánh trăng trong, y hệt những con chuột bạch. Chúng là những tên đầu tiên phát hiện ra cái dải đỏ trải dài trên nền tuyết. Hung dữ và khát máu, chúng nhảy lần theo dấu vết mềm mại và nhanh như cắt.

Một con cáo, cách đến một phần tư dặm, đánh hơi được mùi thịt sống do gió thổi tới, cũng lần đến. Từ một lỗ sâu, khoét giữa một cây khô một con mèo cá ngoi ra, bụng rỗng, đôi mắt nhỏ tròn như những viên tràng hạt, cũng lên đường, lần theo cái dải đỏ.

Vì ở gần hơn, nên nó đến trước, Kazan lao ngay vào nó. Thế là tới tấp, cào, tát, gầm gừ, gào thét vì đau đớn, và con mèo cá chạy biến quên cả đói. Kazan quay về với Sói Xám, mõm rách xước rớm máu, Sói Xám lại phải liếm hộ, trong khi Kazan nằm vểnh tai nghe ngóng.

Con cáo nghe được tiếng động của các con thú đang quần nhau. Bình sinh không phải là một con thú dũng cảm trong chiến đấu mà chỉ thích cắn trộm, chỉ thích giết từ phía sau lưng để không bị nguy hiểm, vì vậy trong trường hợp bất lợi này nó đành quay lại đi kiếm mồi khác. Gặp một con cú đậu trên mặt đất, cáo nhảy vào vồ, và đành bằng lòng với một nhúm thịt của con vật đầy lông này.

Nhưng Kazan không tài nào ngăn cản nổi cuộc xâm lăng của bọn chồn trắng, lũ nhãi ranh ngoài vòng pháp luật của Sơn Lâm. Chúng có thể luồn qua chân người để tuỳ ý lọt đến tận chỗ có thịt và máu con nai già.

Kazan lồng lộn đuổi chúng bên phải bên trái. Nhưng dưới ánh trăng, chúng giống như những ánh sáng chập chờn thoáng ẩn thoáng hiện hơn là những sinh vật. Chúng nhanh hơn Kazan nên luôn luôn thoát khỏi. Chúng đào hào trong tuyềt, đến tận dưới bụng con nai để gặm nhấm, phè phỡn bằng thích. Chán nản, Kazan cắn táp lung tung, và ngậm đầy một mõm tuyết.

Sói Xám bình thản ngồi, mặc cho Kazan lồng lộn. Nó biết không có cách gì đối phó với lũ chồn trắng bé tí kia, và cho là có vất vả cũng bằng thừa. Cuốc cùng Kazan cũng hiểu ra điều đó, đành quay lại với Sói Xám, thở phì phò.

Một phần đêm trôi qua không xảy ra chuyện gì. Thỉnh thoảng từ xa vọng lại tiếng sủa của một con sói, hoặc để ngắt quãng cảnh yên tĩnh rùng rợn, có tiếng rúc của con cú trắng bị Kazan đuổi đang từ trên một cây thông rì rầm phản đối.

Trăng treo giữa đỉnh đầu, trên khu rừng thưa, khi Sói Xám bắt đầu rục rịch. Nhìn thẳng vào con đường lênh láng máu, nó gầm gừ để báo hiệu cho Kazan.

Tiếng Sói Xám gầm gừ dữ tợn đến nỗi Kazan không nhớ đã có lần nào được nghe một tiếng tương tự từ ngày xảy ra cuộc chiến bi thảm trên Núi mặt Trời, nơi Sói Xám đã bị mù vì móng vuốt của mèo rừng.

Kazan thừa biết là một con mèo xám to đang đi trên con đường máu, nên nó vừa hít hít không khí vừa nhe nanh chuẩn bị nghênh chiến.

Nhưng đúng lúc ấy, cách quãng một dặm đường, bỗng vang lên một tiếng rất to của các con thú.

Đó là tiếng đứa con chính cống của Đồng Trắng bao la: Sói.

Kazan và Sói Xám đứng lên vai sát vai. Tiếng sủa kia không phải là một đe doạ. Đó là tiếng kêu gào đói khát và là tiếng gọi anh em.

Một sự chuyển biến diễn ra trong đầu óc đôi bạn. Ngoài cáo, mèo cá và lũ chồn trắng bé tí ra, ngoài tất cả nhhững thú khác của Sơn Lâm ra, thì bầy sói hung dữ có quyền chung dự vào bữa no nê phè phỡn này. Mối tình đồng loại của Sói, đối với Kazan và Sói Xám là cao hơn cả.

Sói Xám ngồi xuống và, như một tiếng kèn, gửi tới bầy anh em Sơn Lâm tiếng gọi chiến thắng, báo cho chúng biết là đầu con đường đỏ một bữa tiệc lớn đã sẵn sàng chờ đón chúng.

Nghe hai loạt vang vọng đó, con mèo xám to đang rình mò quanh khu rừng thưa hoảng sợ, cúp tai, bò xa dần và biến mất vào khu rừng sâu đang gội tắm ánh trăng.
 
5,640
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Kazan (Ca-dăng) - James Oliver Curwood

Chương XVII. CHIẾN ĐẤU

Kazan và Sói Xám ngồi xuống, chờ đợi.

Năm phút trôi qua, rồi mười phút, mười lăm phút, Sói Xám bắt đầu lo ngại. Không một tiếng nào đáp lại nó. Một lần nữa nó lại rống lên sang sảng và trong khi Kazan run sợ, thì nó nghe ngóng trông không khí yên lặng. Tại sao bầy sói không đáp lại từ xa như thường lệ?

Nhưng gần như cùng lúc ấy, mũi nó bỗng giãn rộng ra. Những kẻ nó gọi đã kia rồi.

Kazan trông thấy một bóng dáng đang dần dần rõ nét dưới ánh trăng, cuối khu rừng thưa. Rồi một bóng thứ hai, lại một bóng nữa, đến khi có tất cả năm bóng tiến đến, đầu cúi gằm, ngửi ngửi con đường đỏ.

Chúng dừng lại cách độ ba mươi thước và đứng im.

Điều kỳ lạ là Kazan thấy Sói Xám lùi lại. Nó thấy bạn cụp tai xuống, nhe nanh ra, và trong cổ họng có tiếng gầm gừ thù địch.

Tại sao thế? Tại sao lúc này bạn lại phải thủ thế trước mặt những người anh em cùng loài, mà chính bạn đã gọi đến cùng ăn.

Bất chấp những dấu hiệu cảnh báo của bạn, Kazan cứ bước nhè nhẹ, đầu ngẩng cao, lông lưng dựng đứng về phía những con mới đến. Trái với Sói Xám, nó đánh hơi và thấy có cảm tình với chúng.

Nó dừng cách bầy kia độ hai mươi bước. Bọn này ngồi xuống trên tuyết.

Đuôi Kazan bắt đầu phe phẩy, khi một con trong bầy thú đứng phắt lên, đến gần nó. Các con khác cũng làm theo và chỉ lát sau Kazan đã đứng giữa nhóm. Chúng hít đi hít lại người nhau, với mọi dấu hiệu thích thú. Bầy thú mới đến không phải là sói, mà là chó.

Ở một cái chòi hẻo lánh nào đó giữa cảnh hoang vu băng giá, chủ của chúng đã chết. Thế là chúng lang thang giữa lòng Sơn Lâm.

Chúng vẫn còn mang dấu vết của đai cương xe trượt tuyết mà chúng bị đóng thắng vào. Quang cổ chúng là những chiếc vòng cổ bằng da nai. Trên mạn sườn trầy da, lông bị mòn trụi, và một con trong bọn còn kéo theo một cái càng xe gãy, dài đến gần một thước. Gần như chết đói, chúng gầy kinh khủng. Mắt chúng sáng quắc, đỏ ngầu, trong những hố mắt rỗng.

Thân ái, Kazan thong thả chạy trước và dẫn chúng đến trước cái xác con nai già. Rồi quay lại với Sói Xám nó tự hào, thoả mãn ngồi bên cạnh bạn, lắng nghe tiếng hàm nhai của lũ chết đói đáng thương đang phè phỡn. Thấy Sói Xám hình như vẫn lo ngại, nó thè lưỡi vuốt ve bạn để bạn yên tâm là mọi sự đều tốt đẹp. Ăn xong, bầy chó đến với Kazan và Sói Xám, để thắt chặt hêm quan hệ. Chúng có vẻ quan tâm đến Sói mù hơn. Thái độ thân thiện đó làm Kazan không vừa ý nên nó bắt đầu theo dõi lũ trâng tráo đó.

Trong bầy chó có một con thật dễ sợ. Đây là con kéo theo cái càng gẫy. Nó đưa mũi đến gần mũi Sói Xám và chạm vào. Để cảnh cáo, Kazan rống lên một tiếng đanh gọn. Con chó lùi lại, và cả hai, qua đầu Sói mù, đều nhe hết cả nanh ra với nhau. Đó là lời thách thức của Giống Đực.

Con huski to là đầu đàn. Chưa một con chó nào khác dám đương đầu với nó. Nó nghĩ rằng đứng trước mặt nó, Kazan cũng run sợ, cúp đuôi, chạy trốn, như những con khác.

Nó tỏ vẻ ngạc nhiên thấy hoàn toàn không phải thế. Trái lại, Kazan đã sẵn sàng nhảy qua mình Sói Xám và giao chiến ngay tức khắc. Con chó to lảng xa, gầm gừ, trút giận lên một con bạn, hùng hổ đớp vào sườn nó.

Tuy không để lộ tí gì, Sói Xám hiểu rõ sự việc đang diễn biến. Nó đứng sát vào Kazan, cố tìm cách giục bạn là cả hai phải lánh xa. Thực tế, nó biết là muốn thế nào thì cuộc chiến đấucũng rất nguy hiểm và nó sợ cho bạn đường của nó.

Kazan đáp lại bằng một tiếng gầm gừ như sấm cuộn trong cuống họng. Nó liếm liếm đôi mắt mù của Sói Xám và nằm xuống bên cạnh, mặt đối mặt với bầy chó lạ.

Trên trời, trăng xuống dần và cuối cùng khuất về phía tây, sau các ngọn thông. Rồi đến lượt các ngôi sao cứ mờ tắt dần để nhường chỗ cho bình minh ảm đạm, lạnh lẽo của miền bắc địa.

Trong ánh bình minh đó, Kazan trông thấy con chó to vùng đứng dậy khỏi cái hố nó đào trong tuyết và tiến về chỗ còn lại của con nai.

Kazan lập tức đứng lên và cũng tiến tới chỗ cái xác bị xé nát. Đầu cúi gằm, lông trên lưng dựng lên.

Con huski to làm ra vẻ tránh xa vài bước nhường chỗ cho Kazan. Con chó sói cắn vào đống thịt đông cứng. Nó không đói, nhưng qua đó nó muốn tỏ rõ quyền của nó về chỗ thịt, quyền ưu tiên trên hết của nó.

Trong khi nó cắn vào cổ con nai và có vẻ như quên Sói Xám, thì con huski lùi lại phía sau, lẳng lặng như một cái bóng, lần đến phía sau con sói cái. Sói Xám đáp lại bằng cách cắm sâu nanh vào vai con chó.

Một vệt dài xám, lặng lẽ, khủng khiếp vút qua ánh chập chờn của bình minh. Đấy là Kazan nhảy tới. Không gầm gừ, không sủa, nó nhảy vào con huski và, loáng sau, cả hai đã quấn lấy nhau, trong một cuộc đọ sức không đội trời chung. Bốn con chó kia chạy tới, đứng im cách hai đối thủ chừng mười bước, chờ đợi kết quả của trận chiến. Sói Xám vẫn nằm trên mặt đất.

Đây là một trận chiến ngắn gọn và quyết liệt.

Cả con huski khổng lồ và con chó sói đều sôi sục căm thù như nhau. Hai con thay nhau giành ưu thế. Lúc thì con này lúc thì con kia, đứng thẳng hoặc ngã lăn ra đất. Cuộc chiến đấu diễn biến nhanh đến nỗi bốn con chó khán giả không còn phân biệt ra sao nữa. Mỗi lần thấy Kazan hay con huski ngã ngửa, chúng lại run lên muốn nhảy ngay lên người nó, như thường lệ, để xé xác. Nhưng chúng do dự và sợ hãi, lại đành thôi, vì quyết định cuối cùng bấp bênh quá.

Từ trước đến nay con chó nhà chưa hề thua một trận nào. Nó thừa hưởng được của ông cha một thân hình to lớn kinh kủng và một cái hàm có thể cắn nát đầu một con chó bình thường. Nhưng ở Kazan nó thấy có cả chó, xả sói, cả hai lối chiến đấu khác nhau và ưu tú nhất ở mỗi giống. Cả hai con, cuối cùng, lại vừa mới phục hồi lại sức lực bằng máu thịt của con nai già.

Hai con quấn chặt lấy nhau, Kazan cắn vai con chó, con chó giữ chặt cổ Kazan cố tìm mạch máu cổ. Rồi chúng lại nhả nhau ra, lùi lại đế tấn công nữa. Bốn con chó khẽ tiến lên, cảnh giác, mắt nhìn chằm chằm, miệng há hốc, chờ đợi cuộc quần nhau kết thúc.

Vận dụng chiến thuật ưa thích, Kazan liền đi vòng quanh địch thủ như nó với Sói Xám đã từng cùng làm quanh con nai già. Con chó nhà có vẻ rất hoang mang. Nó xoay mình một cách vất vả, hai tai cụp xuống và khập khiễng bên vai gãy.

Lúc này Kazan đã lại hoàn toàn bình tĩnh, sáng suốt, và, tuy bị mất máu nhiều, nó đã trở lại khôn ngoan và tự chủ. Nó đã vẽ quanh con chó năm lần cái vòng chết. Rồi tình thình, nhanh như tên bắn, nó lao thẳng vào hông địch thủ với toàn bộ trọng lượng của nó để vật ngã kẻ thù.

Cú thúc mạnh đến nỗi con chó nhà lăn ra, giơ bốn cẳng lên trời. Thế là bốn con chó, hợp thành một thứ bồi thẩm đoàn không khoan nhượng cùng tuyên án tử hình cho con huski, chồm lên mình nó để xé xác.

Tất cả căm hờn tích tụ suốt bao năm tháng đối với con đầu đàn hung hăng, nanh dài, quen áp bức đàn em dưới lớp đai cương, giờ đây được tự do trút ra và, trong nhát mắt, con huski đã bị xé thành từng mảnh.

Kazan kiêu hãnh đến đứng bên cạnh Sói Xám từ nãy vẫn để bạn chiến đấu một mình. Nó mững rỡ khẽ thút thít, âu yếm gác đầu lên cổ người bạn chiến thắng. Đây là lần thứ hai, vì nó Kazan phải chiến đấu, một mất một còn, và cả hai lần Kazan đều thắng.

Và tâm hồn Sói Xám, nếu có có một tâm hồn, hướng lên nền trời xám lạnh để tỏ lòng biết ơn, trong khi ngước đôi mắt mù về phía bình minh mờ mịt, nó lắng nghe tiếng thịt xương của kẻ thù kêu răng rắc dưới những hàm răng của bốn con chó, kẻ thù mà vị chúa tế của nó đã quật ngã.
 
5,640
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Kazan (Ca-dăng) - James Oliver Curwood

Chương XVIII. NGÀY HỘI SƠN LÂM



Suốt ba ngày ba đêm, Kazan và Sói Xám sống trên đống thịt lạnh giá của con nai già, nằm canh gác ngay cạnh cùng với bốn con chó đã chấp nhận Kazan làm đầu đàn.

Sói Xám chẳng thiết gì đến cái xã hội cộng đồng đó. Nó chỉ thích được một mình với bạn, và đã nhiều lần cố lôi kéo Kazan vào rừng với nó. Nhưng đối với súc vật cũng vậy, tham vọng dẫn đầu bao giờ cũng mạnh, và không phải là không thích thú khi tìm thấy lại cái uy quyền xưa kia và cái thời kỳ đã lãng quên mà nó được dẫn đầu lũ chó kéo xe.

Tong lúc ấy, thời tiết mỗi lúc một dịu và có thể săn mồi như thường lệ.

Đêm hôm thứ tư Kazan lại hăm hở lên đường dần đầu bốn con chó. Lần đầu tiên nó bỏ rơi phía sau người bạn mù. Một con hoẵng non bị phát hiện và đuổi sát . Kazan nhảy vào cổ nó và cắn chết. Trước khi nó ăn lũ chó đều không dám tự tiện nếm vào miếng mồi chung. Kazan, đấng chúa tể oai hùng, chỉ khẽ gừ là bọn chúng phải lùi ngay. Chỉ trông thấy nó nhe nanh, cả bọn đều run rẩy nằm ép bụng dán xuống tuyết.

Nửa giờ sau, Sói Xám mới đến, buồn bã, đầu cúi gằm, tai cụp xuống. Nó hầu như không nếm vào con hoẵng. Đôi mắt mù của nó có vẻ van lơn Kazan đừng bỏ nó, hãy xa rời bọn mới len lỏi đến kia, để cùng nó sống lại cuộc đời cô độc trước đây.

Bao nhiêu lần khẩn khỏan của nó đều vô hiệu vì ba phần tư chó trong người Kazan khiến nó thấy sung sướng được trở lại giữa lòng những anh em đồng máu huyết, mà nó đã chung sống bao năm. Nó học căm ghét con người, chứ không hề căm ghét chó. Một ảnh hưởng khác giờ đây đang cân bằng với sự ảnh hưởng của Sói Xám.

Hai tuần lễ trôi qua như thế. Nóng ngày càng tăng, nhiệt độ tiếp tục tăng lên và trên đất tuyết bắt đầu tan.

Bầy nho nhỏ đó vẫn đi về phía đông và phía nam. Kazan và lũ chó biết rằng phương đó có xã hội văn minh, mà chúng luôn luôn ao ước được thấy lại. Con người cũng ở hướng đó. Cuộc sống Sơn Lâm của chúng cũng chưa lấy gì làm lâu để sức cám dỗ của quá khứ không còn ảnh hưởng đến chúng.

Thế là sáu con vật đến gần một trạm tiền tiêu hẻo lánh của vịnh Hơt-xân. Chúng đang chạy trên một dải núi cao bỗng dừng lại. Có một người đang phát lên cái tiếng lanh lảnh mà Kazan và bốn con chó rất quen nghe : “Cu-sơ! Cu-sơ! Cu-sơ!”. Quả thực, phía dưới kia sáu con chó đang kéo một cái xe. Một người chạy phía sau, kích thích chúng bằng cái tiếng “Cu-sơ! Cu-sơ! Cu-sơ!” lặp đi lặp lại.

Bốn con chó huski và Kazan run lên, do dự, còn Sói Xám thì bò phía sau. Khi chiếc xe đi khuất, chúng lần xuống chỗ vết xe vừa để lại và đánh hơi, vẻ hết sức xúc động.

Chúng lần theo vết xe suốt gần nửa dặm cùng với Sói Xám. Lo ngại trước một trò táo bạo như vậy, Sói Xám khôn ngoan chạy hơi tách ra một tí. Mùi người khiến nó bực dọc một cách khó tả, và chỉ vì quấn quít Kazan mà nó không đành tâm lẩn trốn đi xa.

Rồi Kazan đứng lại không theo vết xe nữa khiến Sói Xám mừng quá. Phần tư sói trong nó lại trỗi dậy bảo nó phải cảnh giác. Theo dấu hiệu của nó, toàn đoàn đi vào khu rừng cạnh đấy. Khắp nơi tuyết tan và, cùng với mùa xuân, vùng Sơn Lâm cũng đang vắng dần bóng người đã sống ở đây suốt mùa đông. Trên hàng trăm dặm vòng quanh bầy thú, chỉ thấy cánh bẫy thú và thợ săn rút về thương điếm, đem theo số da thú thu hoạch được. Vết xe của họ chi chít như một màng lưới xung quanh bầy thú lang thang. Cuối cùng chúng đến cách trạm độ ba mươi dặm.

Và trong lúc Sói mù mỗi ngày một lồng lộn sợ tai hoạ con người thì Kazan không thể nhịn được nữa, chỉ muốn về với những đao phủ cũ của nó. Trong không khí nó đánh hơi được cái mùi cay cay của lửa trại. Suốt đêm nó nghe thấy câu được câu mất những bài hát mang tính chất rừng rú, kèm theo là những tiếng sủa, tiếng cắn nhau của những bầy chó. Một hôm nó nghe rất gần tiếng cười của một người và tiếng sủa sung sướng của bầy chó được người kia vứt cho cổ phần cá khô hàng ngày. Cứ từng dặm một, Kazan đến gần trạm, còn Sói Xám thì cảm thấy đã sắp đến giờ phút mà tiếng gọi cuối cùng, mạnh hơn mọi tiếng khác, sẽ bắt mất của nó người bạn đường.

Trong chi nhánh của công ty Vịnh Hơt-xân đang rất ồn ào nhộn nhịp. Đây là những ngày thanh toán cho những người săn bẫy thú, những ngày nhìn thấy lời lãi, những ngày vui chơi. Những ngày Sơn Lâm đưa kho lông thú đến, để gửi tiếp về Luân Đôn, về Pa-ri và về các thủ đô khác của châu Âu.

Và năm nay, trong việc tập hợp tất cả mọi người của Sơn Lâm, có thêm một điều đáng chú ý hơn, hồi hộp hơn thường lệ. Tử thần Đỏ đã đi qua và mãi đến bây giờ, do có mặt hay vắng mặt, người ta mới nắm được số lượng người sống sót hoặc đã chết.

Những người thợ dăn da đỏ và những người lai phía Nam đến trước nhất cùng với những bầy chó tạp chủng của họ, mà họ kiếm được ở dọc biên giới xã hội văn minh.

Tiếp theo họ là cánh thợ săn các vùng nghèo nàn miền tây. Họ đưa đến những kho da nai miền bắc và cáo trắng, do một đội quân chó ngao Mắc-ken-đi kéo, loại chó chân to, đùi to, kéo khoẻ như ngựa và sủa ăng ẳng như những con chó Nhật Bản bị quất, mỗi khi bị lũ chó huski và có Eskimo tấn công. Chó La-bra-đo, dữ tợn và đáng sợ nhất, chỉ có cái chết mới thắng nổi chúng, từ những vùng phía bắc vịnh Hơt-xân đến. Chó Ma-lơ-muýt to lớn lông sẫm của vùng A-ta-ba-xca, và chó Eskimo lông vàng, hoặc xám, nếu những người chủ bé nhỏ của chúng nhanh nhẹn thế nào thì chúng khi cắn xé cũng lanh lẹ chẳng kém.

Tất cả những bầy chó này đến là thế nào cũng nhảy và nhau, gầm gừ, cũng sủa, cũng đớp, cũng cắn. Cuộc chiến đấu bằng nanh không lúc nào ngớt.

Các cuộc quần nhau giữa các bầy chó đến từ khắp nơi bắt đầy từ lúc rạng đông khi các xe trượt vừa đến trạm, rối tiếp tục suốt cả ngày và, buổi tối, quanh các đống lửa trại. Trên mặt tuyết tan chỗ nào cũng lênh láng máu.

Trong những cuộc chiến ban ngày và ban đêm, bị đau nhất là bọn chó tạp chủng phía Nam, thuộc hoặc lai giống ma-tanh, đa-noa, và chó chăn cừu, là bọn chó hao, nặng và chậm của vùng Mắc-ken-đi.

Khi tuyết tan đến mức xe trượt hoàn toàn khọng lướt được nữa, và không còn hy vọng thấy thêm người nào nữa, Uy-li-am, nhân viên của chi nhánh, có thể lập danh sách chính thức những người vắng mặt. Anh xoá bỏ tài khoản của họ trong sổ vì biết chắc những người ấy đã bị Tử thần Đỏ quét rồi.

Quãng một trăm đống lửa trại bốc khói xung quanh trạm. Vợ con cánh thợ săn - phần đông họ đều đưa vợ con theo – tíu tít đi đi lại lại giữa các lều và các đống lửa.

Nhưng ầm ĩ nhất, nhộn nhịp nhất là đêm Đại Hội. Suốt bao tuần, bao tháng, đàn ông, đàn bà, trẻ con, của rừng núi và đồng bằng, da trắng, da đỏ, cho đến cả những người Eskimo thấp bé hằng mơ ước trong những căn chòi lạnh lẽo của họ, đều chờ đợi phút vui nhộn này, cái đêm điên cuồng này, vì nó làm cho cuộc sống có một sức lôi cuốn nào đó. Chính công ty vịnh Hơt-xân đứnglên tổ chức đại hội cho tất cả những người làm công hoặc khách hàng của nó.

Năm ấy hơn hẳn mọi năm trước, để xua tan những kỷ niệm buồn bã về Tử thần Đỏ, Uy-li-am buộc phải to ra rộng rãi. Y nhờ cánh thợ săn thịt bốn con nai to miền bắc, trên cánh rừng thưa bao quanh chi nhánh, y cho chất những đống củi khô thật to. Một cành thông bóc sạch vỏ, nhẵn nhụi, dùng làm xiên, gác lên trên những chạc thông cao độ ba mét. Có bốn cái xiên như thế, và mỗi cái đâm suốt cả một con nai đang quay vàng trên lửa. Lửa được đốt lên vào giờ phút hoàng hôn và người đại diện đích thân cất tiếng hát Bài ca Nai Bắc Cực, nổi tiếng khắp miền Bắc Địa.

Kìa con nai béo!
Kìa chú nai to!
Thịt nai chín vàng
Da nai giòn tan
Giữa khoảng thinh không
Dưới bầu trời lộng
Con nai to béo
Con nai trắng ngần.

- Nào, bây giờ đến phiên các bạn! – Y gào lên – Các bạn hãy đồng thanh hát lên!

Thế là, vùng khỏi cái im lặng từ lâu đè nặng lên người họ trong chốn Sơn Lâm, đàn ông, đàn bà, con trẻ cùng cất tiếng hát vang với một niềm hân hoan dâm dật, rừng rù, bùng nổ đến tận trời xanh. Đồng thời, nắm tay nhau, họ mở đầu điệu nhảy Vòng Lớn xung quanh bốn cái xiên đang thơm lừng giữa đám lửa rừng rực.

Tiếng hò reo như sấm động đó vang vọng tứ phía, lan xa đến hàng mấy dặm. Kazan, Sói Xám và lũ chó vô chủ ngoài vòng háp luật cùng đi, đều nghe được tiếng sấm đó. Và chẳng mấy lúc, hoà vào tiếng người, lại có thêm tiếng sủa xa xa của lũ chó, do điệu vũ nhạc điên loạn kích thích.

Lũ bạn đồng hành của Sói Xám và Kazan không đứng được yên chỗ. Chúng vểnh tai về hướng đang có tiếng hò reo như sấm và rên rỉ đến thảm hại.

Kazan cũng không kém phần xúc động. Nó lại bắt đầu giở cái trò quen thuộc, cố lôi kéo Sói Xám đi theo. Tất nhiên lúc nào nó cũng thất bại vì Sói Xám lùi lại nhe nanh ra.

Kazan liền quay về với bốn con chó. Vừa lúc ấy, một cơn gió mang đến rõ hơn âm vang của đem hội Sơn Lâm và tất cả những gì nhộn nhịp sôi nổi của nó. Bốn con chó, quên mất uy quyền của Kazan, không cưỡng nổi tiếng gọi của người nữa. Cúi đầu, cụp tai, chúng phi một mạch như những bóng đen, theo hướng tiếng hò reo. Kazan vẫn do dự. Nó cố thúc đẩy Sói Xám, lúc này nằm ẹp trong bụi rậm, nên theo nó. Nhưng Sói Xám không nhúc nhích. Cùng với bạn, Sói Xám có thể đương đầu với cả khói lửa. Nhưng với con người thì nhất định không.

Sói mù bỗng nghe tiếng chân bước vội trên đám lá khô. Lát sau, biết Kazan đã đi xa, nó đành ra khỏi bụi rậm và cất tiếng thổn thức thật to.

Kazan cũng nghe tiếng than thở của bạn, nhưng không quay lại. Tiếng gọi kia mạnh hơn. Bốn con chó chạy trước đã khá xa, nó phải phóng thật nhanh, cố đuổi cho kịp.

Nó đã hơi bình tĩnh, chạy chậm chậm và lát sau đứng lại. Cách không đầy một dặm trước mặt có thể nhìn thấy những đống lửa to đang bùng bùng làm đỏ rực đêm dày và phản chiếu trên nền trời rộng. Nó ngoảnh nhìn phía sau, như ước mong Sói Xám xuất hiện. Chờ đợi mấy phút, nó lại chạy tiếp.

Chẳng mấy lúc nó gặp dấu vết của một trong bốn con nai đang quay kia, bị người ta kéo lết mấy hôm trước. Kazan lần theo và đến bên rặng cây bao quanh khu rừng thưa, nơi dựng trụ sở thương điếm.

Trước mặt nó điệu Vòng Lớn đang tiếp diễn say sưa cuồng loạn.

Có thể tưởng đây là một trại điên. Tiếng ồn ào thật khủng khiếp. Tiếng hát trần khàn của đàn ông, tiếng the thé của đàn bà, trẻ con, tiếng giậm chân và tiếng cười của toàn thể, tất cả đệm thêm tiếng sủa tha hồ của hàng trăm con chó. Kazan nghe điếc cả tai. Nhưng nó háo hức muốn gia nhập ngay vào cuộc hoà tấu ma quỉ kia. Nấp trong bóng tối một cây thông, nó vẫn phải cố nén rạo rực, hai cánh mũi phập phồng trước mùi thơm ngào ngạt của những con nai vừa chín vàng. Bản năng dè dặt của sói mà Sói Xám đã truyền lại cho nó, đang đấu tranh trong nó một lần cuối cùng.

Bỗng cuộc nhảy vòng dừng lại, tiếng hát im bặt. Cánh đàn ông dùng cọc gỗ dài, rút khỏi xiên mấy cái xác nai to mỡ nhỏ ròng ròng, và đặt chúng xuống mặt đất.

Thế là tất cả thực khách đều nhốn nháo ùa vào, rút dao nhỏ, dao to ra, sáng loáng. Và phía sau vòng người này là vòng tròn của chó xúm xít vào gầm gừ, sủa rống. Lần này Kazan không ghìm được nữa. Rời khỏi gốc thông, nó băng mình vào khu đất trống.

Vừa lúc nó đến, nhanh như chớp, thì độ mươi mười hai người của thương điếm tay cầm roi da dài, bắt đầu xua lùi bầy thú. Một ngọn roi quất xuống, khủng khiếp như cắt như xé, vào vai một con chó eskimo, ngay bên cạnh Kazan. Con chó tức giận, táp vào ngọn roi, nhưng hàng nanh của nó lại bập vào lưng Kazan. Kazan trả miếng luôn, và, trong chớp mắt, cả hai con đều nhe nanh há mõm với nhau. Giây lát sau, con chó Eskimo đã lăn ra đất bị Kazan ngoạm vào cổ.

Đám đàn ông nhảy tới, chửi rủa văng tục. Roi da vung lên bôm bốp, giáng xuống tới tấp như dao. Kazan nằm trên địch thủ nên bị đau rát hơn. Thế là ký ức tàn bạo về những ngày quá khứ bỗng trỗi dậy, con người là bạo chúa của nó. Nó gầm lên và thong thả nhả ra.

Vừa ngẩng đầu lên, nó thấy ngay một người rời khỏi đám đông, tay cầm dùi gỗ, vì bắt chước gương trên, tất cả bầy chó đã nhảy xổ vào nhau.

Cái dùi gỗ giáng rất mạnh xuống lưng Kazan, quật nó lăn ra đất và đang vung lên lần nữa. Phía sau cái gậy to tướng là một bộ mặt gân guốc, dữ tợn, đỏ rực ánh lửa.

Chính một bộ mặt như thế trước đây đã đẩy Kazan về với Sơn Lâm. Cái dùi gỗ vừa hạ xuống thì nó vùng lùi lại để tránh, nhe hết hàm nanh sắc trắng nhởn như dao ra. Lần thứ ba, cái dùi gỗ lại vung lên. Kazan nhảy tới, táp vào cánh tay người kia, rạch một đường đến tận bàn tay.
- Ai a! - Người kia rống lên.

Trong bóng đêm, Kazan nhận thấy lấp lánh một nòng súng. Nhưng nó đã phóng về phía rừng sâu. Một tiếng nổ vang lên. Một vật gì như than hồng lướt trên mạn sườn con vật chạy trốn.

Được một quãng khá xa, yên trí là không bị đuổi theo, con chó sói mới thôi không chạy nữa và liếm liếm cái vạch cháy bỏng do viên đạn cày trên sườn, làm cháy cả lông và mất một mảnh da. Sói Xám vẫn chờ nó ở chỗ cũ, Mừng quýnh, Sói Xám lao tới với nó. Một lần nữa, con người đã đẩy bạn đường về với Sói Xám.
 
5,640
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Kazan (Ca-dăng) - James Oliver Curwood

Chương XIX. CON TRAI CỦA KAZAN

Vai kề vai, đôi bạn lại chạy về hướng tây bắc, trong khi tiếng hò reo ầm ào phía sau tắt dần.

Sau nhiều ngày hết chạy lại nghỉ, chúng trở về đến chỗ đầm lầy, nơi chúng đã trú ngụ suốt thời gian nạn đói và trước khi gặp bầy chó hoang.

Mặt đất đã một thời gian giá cứng vì bị tuyết phủ dày. Hôm nay vừng ô chói lọi trên bầu trời ấm, trong toàn bộ cảnh rực rỡ của mùa xuân. Khắp nơi băng đá nứt nẻ, vỡ vụn, tuyết tan, thêm vô vàn những dòng nước cuồn cuộn trên mặt đất. Khắp nơi chỉ thấy băng tan tuyết chảy và sự suy tàn của mùa đông, trước những ngọn núi tái hiện và những cây cối chớm nảy mầm xanh. Và cái anh huy hoàng lạnh lẽo của bình minh phương bắc, từng soi sáng bao đêm qua, đã đẩy lùi xa xa mãi, cái vinh quang tàn lụi của mình về phía địa cực.

Những cây phong căng phồng mầm non, sẵn sàng nảy lộc và không gian ngát đượm mùi thơm ngào ngạt của thông, trám hương, và của bá hương. Nơi mà sáu tuần lễ trước đây nạn đói và tử thần ngự trị, thì nay Kazan và Sói Xám tha hồ hít thở mùi đất và lắng nghe tất cả những tiếng đập của cuộc sống đổi mới.

Trên đầu chúng một đôi chim nai mới kết đôi bay lượn và hót mừng chúng. Một con cà cưỡng đang rỉa lông dưới ánh nắng xuân. Xa xa có tiếng vó nặng nề đạp gãy răng rắc những cành con rải đầy mặt đất. Chúng đánh hơi được cả mùi một con gấu mẹ, đang hì hục kéo những cành phong có nhiều lộc mà lũ gấu con rất ưa thích. Sói Xám không ngừng cọ cọ cái đầu mù vào đầu Kazan. Nó chẳng thiết gì săn. Mùi nai miền bắc, mùi gấu mẹ cũng không làm trỗi dậy nổi bản năng hiếu chiến của nó.

Đôi bạn đến trước cái cây rỗng đã từng là chỗ trú ngụ của chúng. Kazan nhận ra ngay và Sói Xám cũng ngửi thấy.

Mặt đất ở đây hơi được bồi cao, không bị nước tuyết tan phủ ngập. Nhiều nơi khác của đầm lầy đều lấp lánh như gương. Nhưng một dòng nước nhỏ chảy quanh và cô lập hoàn toàn gốc cây ra.

Trong khi Sói Xám vểnh tai nghe tiếng róc rách thì Kazan nhìn bên phải bên trái để tìm lối lội qua. Không có chỗ nào cả, nhưng một cây bá hương to đổ nằm ngang dòng nước tạo thành một cái cầu. Nó bước lên thân cây, và Sói Xám, sau một lúc do dự, cũng theo nó.

Thế là cả hai đến được chỗ trú cũ. Chúng dè dặt ngửi hít cửa vào và, thấy không có gì bất thường, chúng liền quyết định chui vào. Sói Xám buông mình nằm xuống ngay trong góc tối nhất của cái ổ cũ. Kazan đến bên bạn để liếm và đầu tỏ dấu thoả mãn. Sau đó, nó chuẩn bị ra ngoàii để đi kiếm ít mồi.

Kazan vừa ra đến cửa bỗng có mùi của một vật sống đập vào mũi. Nó co dúm chân lại và lông dựng đứng hết lên.

Chưa đầy hai phút sau, có tiếng the thé như tiếng trẻ nhỏ và một con nhím xuất hiện. Anh chàng cũng đang đi tìm một chỗ ở và, mắt dán tận sát đất, không nhìn phía trước, nó đi thẳng đến cây bá hương.

Kazan thừa biết nhím khi không bị tấn công là giống vật hiền lành nhất. Nó không nghĩ rằng chỉ cần gừ khẽ một tiếng là đủ đẩy lùi, nhanh và ngoan ngoãn, con vật hiền từ, ba hoa, chí choé, lúc nào cũng độc thoại ấy. Nó chỉ thấy đấy là một tên nhóc khó chịu, đến quấy rầy nó và Sói Xám. Tóm lại, nó đang lúc bực mình, thế là nó khinh thường nhảy xổ vào con nhím.

Kết quả cuộc tấn công đó là một tràng chiêm chiếp thút thít, eng éc, mỗi lúc một to dần, rồi đáp lại là một cung điệu sủa rống điên loạn.

Sói Xám lao ra khỏi hốc cây, trong lúc con nhím đã nhanh chóng co dúm lại thành một quả cầu tua tủa những chông, còn Kazan đứng cách đấy mấy bước thì đang điên cuồng lồng lộn chịu đựng những nỗi đau đớn, nhức buốt nhất mà một con thú sống ở rừng núi có thể nếm được.

Mõm nó, miệng nó giống hệt một cái gối cắm kim. Nó lăn ra đất, đào bới trong đất mùn một cái lỗ to, xoè hết móng ra tát tới tấp vào những cái chông đang xuyên qua da thịt. Rồi như con mèo rừng trước đây trên dải cát, như tất cả mọi con vật đụng chạm quá gần với anh bạn nhím, nó chợt vùng dậy, chạy quanh cái đảo nhỏ, vừa lồng lộn vừa sủa ăng ẳng.

Không khó khăn gì, Sói mù đoán ngay được sự việc đang xảy ra. Nó không hốt hoảng quá mức và có lẽ - ai biết được những ý nghĩ gì có thể xảy ra trong đầu óc súc vật – trong thâm tâm, nó còn thích thú về cái chuyện xảy đến với anh bạn đường dại dột, mà nó đang nghe và đang hình dung được những trò nhảy nhót lố bịch.

Nhưng vì không thể giúp được gì, nó đành vểnh ti ngồi chờ và mỗi lúc Kazan lồng lộn nhảy đến quá gần, nó lại tránh ra một tí.

Trong lúc ấy, con nhím thoả mãn về kết quả cách tự vệ của mình lại dè dặt duỗi ra, cúp chông lại rồi vừa lắc lư vừa lặng lẽ bò đến một cây phong gần đấy, xoè móng ra bấu, trèo lên thật nhanh. Sau đó nó lại bình thản như không, chăm chú gặm vỏ non một cành nhỏ.

Chạy vòng quanh mãi, Kazan đành đứng lại trước mặt Sói Xám. Nỗi đau do lông nhím gây ra đã bớt nhức nhối. Nhưng trong thịt vẫn còn nhức nhối như m65t vết bỏng sâu dai dẳng.

Sói Xám đến bên nó, lần lại thật gần, và dè dặt lấy mõm, lấy lưỡi, sờ sờ liếm liếm Kazan. Rồi nó dùng răng nhẹ nhàng cắn nhổ hộ ra hai ba cái lông nhím.

Kazan sung sướng khẽ kêu lên và Sói Xám lại tiếp tục nhổ thêm mớ chông thứ hai. Thế là tin tưởng, Kazan nằm xuống, duỗi hai chân trước ra, nhắm mắt, không rên rỉ nữa, chỉ thỉnh thoảng khi nào đauq áu mới xót xa kêu lên một tiếng, mặc cho cô hộ lý khéo léo chăm sóc.

Chẳng mấy chốc cái mõm thảm thương của Kazan đỏ lòm những máu. Suốt một giờ, Sói Xám, tuy mù, chăm chú vào nhiệm vụ của mình và, sau đó, đã nhổ được hầu hết những ngọn chông đáng nguyền rủa. Chỉ còn vài cái ngắn quá hoặc cắm sâu quá, răng nó không cắn được.

Kazan liền đi xuống chỗ dòng suối nhỏ, nhúng xuống nước lạnh giá cái mõm nóng bừng. Giây phút có nhẹ nhàng thật nhưng chỉ được chốt lát thôi. Vì những cái chông còn lại trong thịt, chẳng mấy chốc làm nóng bỏng cái mõm, và đôi môi. Chông càng xé thịt, xuyên vào như một vật sống động, lại càng nóng bỏng.

Môi mõm Kazan bắt đầu sưng phù. Kazan sùi bọt mõm bọt mép, lẫn cả máu, hai mắt đỏ ngầu. Hai giờ sau khi Sói Xám đã làm xong nhiệm vụ, quay vào nằm trong ổ, anh chàng xấu số vẫn như thế.

Nó điên tiết nhảy đến bên một mẫu gỗ, cắn xé lồng lộn. Hình như có một cái chông làm nó đau nhất gãy ra, thế là nó lại cắn nữa.

Thiên nhiên đã dạy cho nó cách chữa duy nhất có thể làm được là nhai thật mạnh đất và các mẩu gỗ. Nhai như vậy, mũi chông mòn dần và chính chông cũng gẫy. Cuối cùng bị dồn ép mãi, chông phải bật ra khỏi thịt như một cái dằm khi ta lấy ngón tay đẩy ra.

Trời vừa chạng vạng, thì Kazan được hoàn toàn giải thoát, nó liền chui vào trong hốc cây với Sói Xám. Nhưng đêm hôm ấy, nó còn phải dậy nhiều lần ra chỗ dòng nước để tìm cách làm dịu bớt nỗi đau dai dẳng.

Hôm sau, nó chẳng còn đẹp đẽ gì nữa, mõm nó “nhăn nhó như mó phải nhím” như dân Sơn Lâm nói. Mõm nó sưng đến mứa Sói Xám cũng phải lăn ra cười nếu nó là người và không bị mù. Dọc hai bên hàng môi nó phồng như gối bông. Đôi mắt chỉ còn là hai kẽ hẹp, giữa bộ mặt sưng húp.

Lúc Kazan rời hốc cây, ra ngoài trời, nó chẳng thấy gì hơn cô bạn mù nữa. Nhưng ít ra cũng đỡ đau khá nhiều. Đêm hôm sau, nó lại nghĩ đến chuyện đi săn và chưa rạng sáng nó trả về với một con thỏ.

Lẽ ra còn được thêm một con đa đa thông nữa nếu lúc sắp nhảy vào con chim đậu trên mặt đất, Kazan không nghe tiếng nhím chiếp chiếp.

Nó đứng lại như bị đóng đinh tại chỗ. Xưa nay làm cho nó sợ đâu phải dễ. Nhưng cái tiếng chiếp chiếp rời rạc vô nghĩa của con vật bé nhỏ có loại chông độc ác kia đủ làm cho nó hãi hùng và, lát sau, cúp đuôi, chạy biến thật nhanh. Cũng như con người e sợ rắn thì từ nay Kazan phải mãi mãi tránh xa con vật kia của Sơn Lâm, một giống thú hiền lành rất mực chưa bao giờ tìm cách hại ai và cũng chưa bao giờ ngừng tiếng cười vui khúc khích.

Sau câu chuyện Kazan và con nhím, suốt hai tuần lễ ngày cứ dài dần, mặt trời cũng ấm dần. Những bông tuyết cuối cùng cũng biến mất rất nhanh. Khắp nơi, phong nảy mầm, lộc xanh xuất hiện, và lá nho đỏ lấp lánh sáng bừng lên. Trên các sườn núi dãi nắng nhất, giữa khe đá những hoa tuyết chớm xoè cánh nở, chính thức báo hiệu xuân về.

Tuần lễ đầu Sói Xám nhiều lần cùng đi săn với Kazan. Chúng chẳng cần phải đi xa. Đầm lầy nhung nhúc các thú nhỏ và ngày nào đêm nào chúng cũng tìm được thịt sống.

Sang tuần thứ hai Sói Xám săn ít hơn. Rồi đến một đêm, một đêm xuân ngào ngạt hương rừng, êm ả, lồng lộng, dưới ánh trăng rằm, Sói Xám không chịu rời khỏi hốc cây nữa.

Kazan cũng không thúc giục bạn. Bản năng báo cho nó hiểu sắp có một sự kiện gì mới. Nó đi săn nhưng không đi xa quá và chỉ lát sau đã đưa về một con thỏ trắng.

Vài ngày nữa trôi qua rồi đến một đêm, từ góc ổ tối nhất, Sói Xám chào đón Kazan về bằng một tiếng gừ khẽ, rất nghẹn ngào. Nó đứng ở cửa hang, mõm ngoạm con thỏ, không vào.

Một lát sau, nó buông rơi con thỏ xuống, nhìn chằm chằm vào chỗ bóng tối Sói Xám nằm. Cuối cùng nó nằm ngang trước cửa hang. Rồi băn khoăn, bồi hồi, nó lại đứng dậy va ra đi.

Sáng ra nó mới trở về. Như trước đây trên Núi Mặt Trời nó hít đi hít lại mãi. Cái mùi đang phảng phất trong không khí đối với nó không còn là một điều bí mật nữa. Nó đến gần Sói Xám, Sói Xám nằm im không gầm gừ. Nó hít bạn, vuốt ve bạn, còn Sói Xám thì khẽ rên rỉ. Rồi mõm nó phát hiện ra một vật gì khang khác, thở rất khẽ.

Hôm ấy, Kazan không đi săn. Nó hả hê nằm dài trước ánh nắng chan hoà, đầu gục xuống, hàm há rộng, dấu hiệu của niềm thoả mãn đang tràn ngập trong lòng.
 
5,640
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Kazan (Ca-dăng) - James Oliver Curwood

Chương XX. DẠY DỖ BAREE



Lần đầu tiên bị tước mất những niềm vui của gia đình vì tấn thảm kịch trên Núi Mặt Trời, Kazan và Sói Xám vẫn không quên câu chuyện bi đát ấy.

Thoáng nghe có tiếng động nhỏ nhặt nào, Sói Xám lại rùng mình, run lên, sẵn sàng nhảy xổ vào kẻ thù không trông thấy sắp xuất hiện, và xé tan bất cứ kẻ nào ngoài Kazan và đứa con kia ra.

Kazan cũng không kém phần lo ngại và cảnh giác. Nó luôn luôn chồm dậy rình mò xung quanh. Nó nghi ngờ những bóng đen cử động trước gió, dưới ánh nắng hoặc ánh trăng. Một cành cây gãy, một nhánh lá đu đưa cũng làm cho nó co dúm môi, nhe hết nanh ra. Nó gầm gừ, đe doạ cả không khí trong lành, mỗi khi có mùi khác lạ thoảng đến mũi.

Không giây phút nào, dù là ban ngày hay ban đêm, nó sao nhãng chuyện canh gác. Chắc chắn như con người chờ đợi mặt trời mọc mỗi buổi sáng, nó cũng tin chắc rằng ngày một ngày hai, sớm muộn gì kẻ thù không đội trời chung của chúng, cũng sẽ xuất hiện, sẽ nhảy đến hoặc bò trườn đến. Chính cũng vào một giờ phút thế này con mèo rừng đã gây nên cảnh mù loà và chết chóc.

Nhưng trên đầm lầy, hoà bình đã giang đôi cánh mặt trời. Xung quanh Kazan và Sói Xám không có kẻ nào khác lạ, ngoài chú cà cưỡng mắt to kín tiếng miền địa, các con chim nai mắt tròn, những cô chim sẻ kêu ríu rít trong các bụi rậm, các chú chuột rừng dễ thương và các chú chồn nhỏ lông trắng.

Cuối cùng Kazan cũng thấy yên tâm. Thỉnh thoảng nó cũng sao nhãng canh gác, để lần mò trong bóng tối, đến ngửi ngửi đứa con trai, chú sói con độc nhất của Sói Xám.

Chú sói con này, nếu dân da đỏ vùng bờ biển Chó ở quá về phía Tây mà đặt tên cho nó, chắc chắn họ sẽ gọi nó là Baree, theo ngôn ngữ của họ có vừa nghĩa là “con một” vừa có nghĩa là “chó sói”, cả hai điều đều hợp với nó.

Ngay từ buổi đầu, nó là một chú bé hiền lành, nhanh nhẹn, được mẹ hết lòng nâng niu chăm sóc. Chú sớm lớn nhanh như sói chứ không chậm lớn như lũ chó con thông thường.

Ba hôm đầu, chú không làm gì khác ngoài việc co dúm thật sát vào bụng mẹ. Đói lại bú, ngủ thì li bì bằng thích, và cái lưỡi âu yếm của Sói Xám không ngừng chải chuốt liếm sạch cho chú.

Ngày thứ tư, tính tò mò của chú bắt đầu trỗi dậy. Cố gắng lắm, móng bám vào lông mẹ, chú mới trườn lên đến mõm mẹ. Rồi chú rời khỏi mẹ, lết ra ccáh vài bước, lảo đảo trên đôi chân mềm oặt, khi đó chú mới hốt hoảng hít hít thất vọng tưởng nguy to mất rồi.

Tiếp sau đó, chú biết Kazan cũng như là một bộ phận của Sói Xám. Chưa hết tám ngày, chú đã khoái trá đến nằm co tròn giữa hai chân trước của bố, ngủ một cách yên lành.

Lần đầu tiên chú làm thế, Kazan hình như ngẩn ngơ, đớ ra. Nó không nhúc nhích đến nửa giờ, cà Sói Xám sung sướng đến liếm liếm chú bé chạy trốn.

Mười ngày, Baree phát hiện ra trò chơi, và đối với chú, kéo kéo một mảnh da thỏ là một môn thể thao thích thú tuyệt vời.

Tất cả những chuyện đó hãy còn diễn ra trong nơi trú ẩn tối om của hốc cây. Mãi cho đến lúc chú sói con hiểu biết thế nào là ánh sáng và mặt trời.

Đấy là một buổi xế trưa trời nắng đẹp. Nhờ một lỗ thủng trong vỏ cây, một tia sáng lấp lánh xuyên qua và chiếu xuống chân cạnh Baree. Thoạt đầu Baree ngạc nhiên và nhìn chằm chằm cái vạch óng ánh vàng. Rồi lát sau, chú thử vờn đùa với nó, như chú vẫn đùa với miếng da thỏ. Chú không hiểu tại sao lại không nắm được, nhưng từ đó chú biết thế nào là ánh sáng và mặt trời.

Những ngày sau, chú lần ra cửa hang, chú thấy cũng có cái ánh sáng lấp lánh ấy. Hai mắt quáng loà, nhấp nháy, chú sợ quá, nằm xuống ở ngưỡng cửa cái thế giới bao la trước mặt.

Sói Xám, trong suốt thời gian đó, vẫn theo dõi chú, giờ đây thôi không giữ chú trong hốc cây nữa. Chính nó cũng ra nằm ngoài nắng và gọi con trai đến bên cạnh. Đôi mắt yếu ớt của chú sói con quen dần với ánh sáng mặt trời mà chú đang dần yêu mến. Chú yêu không khí ấm áp, chú yêu cuộc sống êm đềm, và chỉ chán ghét bóng tối mịt mù của cái hang hổ nơi chú sinh ra.

Cũng chẳng mấy lúc chú hiểu ra rằng trong trờiđất không phải mọi cái đều êm đềm tốt đẹp. Một hôm, dông bão nổi lên và Baree đang lần mò vô tư lự trên cái đảo nhỏ, Sói Xám gọi chú lại để chui vào cái hốc cây bảo hộ. Chú sói con không hiểu nổi tiếng gọi đó, cứ làm ngơ như điếc. Nhưng thiên nhiên nhận ngay phần dạy bảo nó. Một trận mưa trút ập xuống đầu chú, dưới ánh chớp chói loà và tiếng sấm rền vang. Đúng là rụng rời khủng khiếp, chú nằm bẹp xuống đất, ướt sũng đến tận xương, và suýt chút nữa bị chết đuối nếu không được Sói Xám đến ngoạm chú mang về ổ.

Cứ như thế dần dần hình thành óc suy lậun của chú và các bản năng tiếp tục nảy nở. Hôm cái mõm sục sạo của chú chạm vào một con thỏ vừa mới chết và còn roi rói máu tươi mà Kazan vừa mới đưa về, chú mới hiểu thế nào là mùi vị của máu. Chú nhận thấy ngọt ngào tuyệt trần. Từ đó, cảm giác ấy cứ tái hiện, mỗi lần Kazan trở về với một con mồi giữa hai hàm răng. Vì cũng phải học để tự mình đi săn giết, từ bỏ những mảnh da thỏ mềm mại xưa nay chú vẫn đùa nghịch, chẳng mấy lúc chú tiến đến đánh nhau với những cành gãy và những mẫu gỗ, để mài luyện hàm răng trở thành những chiếc nanh nhỏ vừa cứng vừa sắc.

Thế rồi thời cơ đến, vén mở cho chú thấy sự huyền bí vĩ đại của cái sống và cái chết. Kazan đã cắn về một con thỏ trắng tơ, còn sống, nhưng đã liệt không đứng được khi Kazan đặt nó xuống đất. Baree biết rõ thế nào là thỏ, là đa đa, bây giờ chú ưa thích thứ thịt roi rói máu tươi của chúng hơn dòng sữa ngọt ngào của mẹ. Nhưng luôn luôn đến với chú toàn thỏ và đa đa chết rồi.

Lần này, con thỏ gãy lưng, quằn quại giãy giụa trên mặt đất. Chú sói con thấy thế sợ hãi giật lùi. RỒi chú quay lại, tò mò rình ngắm con vật khốn khổ hấp hối nhảy giật, giãy chết.

Cảm thấy sự việc không tiến triển, Sói Xám đến bên con thỏ, hít kỹ mươi mười hai lần, nhưng vẫn không cắn chết giải thoát cho nó, cứ ngoãnh cái mặt mù về phía Baree. Còn Kazan thì uể oải nằm xuống cách đó mấy bước, tiếp tục quan sát có vể rất thích thú.

Mỗi lần Sói Xám cúi đầu, rà mõm lên con thỏ, hai cái tai nhỏ xíu của chú sói con lại vểnh lên, chăm chú và ở trong tư thế sẵn sàng. Thấy không có gì nguy hại đến mẹ, chú đến gần hơn tí nữa, dè dặt, hai chân cứng đờ. Một lúc sau, chú đánh liều chạm vào con thỏ, và cũng như mẹ, chú đặt mõm lên bộ lông dày đang lăn lóc, bề ngoài như vô tri giác.

Nhưng con thỏ chưa chết. Trong cơn giãy giụa, nó co chân sau đạp mạnh một cái, Baree ngã lăn lông lốc cách đấy những mấy bước, hoảng sợ kêu ăng ẳng.

Tuy vậy chú sói con đứng dậy rất nhanh. Chú tức quá muốn trả thù bằng được. Chú quay lại nhảy xổ vào tấn công không sợ hãi như trước nữa, lông lưng dựng đứng, và tự mình hoàn thành công cuộc dạy dỗ, cắm sâu hàng nanh nhọn vào cổ con thỏ. Chú cảm thấy sự sống đang thoi thóp trong cái thân hình rũ rượi, các thớ thịt của con thỏ hấp hối đang co rút dưới người chú, và chú nhất quyết không nhả ra trước khi nạn nhân đầu tiên của chú không còn chút dấu hiệu sống nào nữa.

Sói Xám sung sướng hả hê. Nó đưa lưỡi liếm liếm vuốt ve sói con. Kazan đứng dậy, biểu thị sự tán thưởng của mình bằng một tiếng khịt mũi khoái trá. Trong con thỏ, Baree thích chỗ nào thì ăn chỗ ấy; chưa bao giờ chú cảm thấy máu và thịt ngon đến thế.

Lần lần, tất cả mọi bí mật của cuộc sống hiện dần ra với chú. Từ nay, chú không còn sợ hãi tiếng rúc đáng ghét của con cú xám, tiếng cây gãy, tiếng sấm rền, tiếng nước đổ, tiếng mèo cá kêu the thé, cũng như tiếng gọi xa xa của những anh em Sói, tru rống giữa đêm khuya.

Chú ý thức về khứu giác của mình, đó là điều bí mật huyền diệu nhất. Một hôm, chú đang lang thang cách hang ổ độ năm mươi dặm, mũi chú bắt gặp trên mặt đất mùi ấm ấm của một con thỏ. Lập tức không cần suy luận về cảm giác của mình, cũng không phải vận dụng tư duy tí nào, chú biết ngay rằng, muốn đến được chỗ có món thịt sống ưa thích, chỉ cần lần theo cái mùi này. Thế là chú thực hiện ngay ý nghĩ, khấp khởi bằng lòng suốt dọc con đường phát hiện được. Chú đến một thân cây to đổ xuống đất, tại đây con thỏ đã nhảy qua. Dấu vết thế là bị đứt quãng, Baree mất phương hướng, đành quay lại.

Mỗi ngày, chú một mình bước vào những cuộc phiêu lưu mới; như một nhà thám hiểm không địa bàn, đặt chân lên một mảnh đất hoang vắng, chú cứ lao bừa vào chỗ chưa hay biết. Mỗi ngày chú lại gặp một điều mới lạ, thường thường hãi hùng, luôn luôn kỳ diệu. Nhưng bây giờ sợ hãi của chú ngày một bớt dần, còn tin tưởng thì cứ lớn dần vì thực tế chẳng có nguy hại gì quan trọng xảy đến với chú cả.

Song song với bộ óc, thân hình chú phát triển dần. Chú không còn là một khối tròn tròn phục phịch nữa. Hình dáng chú uyển chuyển dần, động tác chú nhanh nhẹn hơn. Bộ lông vàng sậm dần, một vệt xám chạy dài trên sống lưng chú, giống hệt cái vệt trên lưng Kazan. Đầu Baree dài thon, giống hệt đầu mẹ, nhưng toàn thân còn lại thì chú thừa hưởng của bố.

Chú hưởng được của bố bộ chân to khoẻ và cái ngực rộng dấu hiệu sưc khoẻ tương lai. Mắt chú mở rộng với một ít tia đỏ ở khoé mắt. Tất cả dân rừng đều biết ý nghĩa đó khi họ nhận thấy trong mắt những chú huski cái giọt máu ấy. Nó có nghĩa là con vật được sinh giữa lòng Sơn Lâm, và bố hoặc mẹ nó thuộc những bầy hoang thú ngoài vòng pháp luật của Đồng Trắng bao la. Cái tia đỏ ở Baree lại rất rõ. Nó nói lên rằng, tuy thuộc giống chó lai, Baree thật sự là con của Sơn Lâm; Sơn Lâm đã để dấu ấn trên mình nó.

Khi hoàn đảo tổ ấm của chú sói có dòng nước bao quanh đã được chú thám hiểm hết rồi, chú bèn nghĩ đến chuyện vượt qua bờ bên kia.

Sau nhiều lần quan sát, lần nào cũng không kết quả, và đi men men làn nước róc rách rì rầm bên bờ, trước chân, Baree đánh liều bước lên cái cây đổ vẫn dùng làm cầu cho bố mẹ. Sang được bờ bên kia, không gặp trở ngại mà cũng không mất thăng bằng, chú cảm thấy như được đột nhiên chuyển đến một thế giới mới. Chú còn do dự một lúc, rồi mạnh dạn cất bước lên đường. Đi được quãng năm mươi thước chú bỗng nghe gần chú có tiếng đập cánh. Một con chim cà cưỡng mắt to vùng bắc địa đang đứng ngay giữa đường.

Con chim không bay được nữa. Một bên cánh nó xệ xuống đất, hẳn là bị gãy sau một trận chiến với một con dã thú nhỏ nào đó của Sơn Lâm. Dù sao thoạt tiên đối với Baree, nó cũng là một trong những vật sống hồu hộp nhất, khêu gợi nhất.

Trên cái vạch xam xám ở lưng Baree, lông dựng cả lên và chú sói con tiến tới phía con chim.

Con cà cưỡng tử nãy vần đứng im, bắt đầu lùi chạy, vừa khập khiễng, vừa nhảy lò cò, lúc thấy Baree chỉ còn cách mình độ ba bước. Nhưng Baree không chút do dự, lao vút vào con chim bị thương, sủa lên một tiếng xé tai và tức tối. Một cuộc đuổi bắt nhanh gọn, sôi nổi diễn ra, rồi những cái răng nhọn của chú sói con cắm ngập vào lớp lông vũ.

Con chim dùng mỏ mổ tới tấp. Cà cưỡng vốn là niềm sợ hãi của loài có cánh nhỏ. Vào mùa làm tổ, nó dùng cái mỏ cứng của nó để mổ chết lũ con của chim sẻ, của chim nai có những cặp mắt hiền từ, và cả lũ con của những chú công binh có cánh của rừng sâu mà người ta gọi là chim gõ kiến.

Con cà cưỡng to mổ liên tục vào mõm Baree. Nhưng “cậu ấm” của Kazan đã khá lớn rồi nên không còn nhăn nhó trong cuyện đánh nhau nữa; càng bị mổ đau nó càng nghiến răng thật chặt. Cuối cùng nanh chạm đến thịt, và một tiếng gừ gừ sung sướng trẻ thơ cuồn cuộn trong họng chú.

Từ lúc đó sự chống cự của con cà cưỡng yếu dần và chẳng mấy chốc nó thôi không mổ, không vùng vẫy nữa. Baree nhả ra, nhè nhẹ lùi bước. Chú nhìn con chim nằm lăn quay trước mặt, bất động, rối bù. Con cà cưỡng đã chết.

Chú Sói con đã thắng trận đầu, một niềm kiêu hãnh nảy nở trong chú. Từ nay, chú không còn là một kẻ ăn bám của Sơn Lâm. Chú đã bước đầu tập sự trong guồng máy ác liệt của cuộc sống rừng núi. Chú đã giết.

Một giờ sau, Sói Xám, lần theo dấu vết, tìm thấy chú vẫn ở chỗ đó. Cả con cà cưỡng to chỉ còn mấy mẩu nhỏ; lông rụng vương vãi lhắp mặt đất. Còn Baree, mõm đầy máu, thì nằm nghỉ trước những gì còn lại của nạn nhân trong tư thế kẻ chiến thắng.

Sói Xám hiểu ngay và vuốt ve mơn trớn chú sói con. Chú cùng về với mẹ và đem về cho bố một cái cánh của con chim thua trận.

Từ đó săn bắt trở thành thú say sưa chủ yếu của Baree. Những lúc không ngủ ngoài nắng ấm hoặc ban đêm trong hốc cây, chú chỉ lo tìm kiếm những gì sống động, có thể tiêu diệt được.

Chú giết chết cả một gia đình chuột rừng. Lũ chim nai chú phải nấp rình cũng là thứ mồi dễ bắt và, trong có mấy ngày, chú giết được ba con. Nhưng trái lại với chồn trắng thì rủi ro hơn vì nó cắn rất đau và chạy mất, không hề gì cả, khiến chú được nếm mùi thất bại đầu tiên.

Sau lần thất bại đó, chú buồn bã mấy ngày và nằm im. Nhưng chú nhận thức được rằng : trong số thú vật của Sơn Lâm, nên dè dặt với những con có nanh như chú. Nói chung chú biết là không nên ăn thịt những loại đó. Thực tế ít lâu sau, gặp một chú mèo cá, cũng đang trên đường kiếm ăn như chú, chú để cho nó đi qua không ý kiến gì. Con mèo cá, cũng không kém thận trọng, làm y như thế.

Nhiều điểm khác đối với chú lại do trời phú cho. Theo bản năng, trước cả khi được nếm mùi nhức buốt, chú biết cần phải tránh đụng chạm với nhím. Càng ngày chú sói con đi săn càng xa và càng lâu. Lúc đầu thấy con về hang muộn Sói Xám còn lo lắng. Bây giờ nó cũng đã ít quan tâm hơn. Quy luật thiên nhiên, tiếp tục bước đi của mình.

Rồi một buổi xế trưa, Baree đi xa hơn thường lệ. Chú giết được một con thỏ, ngấu nghiến kỳ no rồi nằm luôn tại chỗ cho đến xẩm tối.

Trăng rằm mọc ảm đạm, vàng ối, như muốn thi với ánh ngày, toả sáng tràn ngập cánh đồng, ngọn cây, và đỉnh núi. Thật là một đêm tuyệt vời. Baree phát hiện ra mặt trăng. Chú cất bước lên đường dưới ánh trăng kỳ diệu, lưng vẫn nghoảnh về phía tổ ấm của gia đình.

Suốt đêm hôm ấy, Sói Xám thức chờ con trai. Đến khi ánh ngày trở lại, nó mới ngồi xuống, ngước lên trời đôi mắt mờ đục, rống một tiếng sủa dài.

Xa xa, Baree nghe tiếng mẹ nhưng không đáp lại. Sự phát triển của chú thế là hoàn thành. Thiên nhiên đã hoàn toàn giành lại uy quyền của mình. Một thế giới mới, một cuộc sống mới, từ nay mở rộng cho chú sói con. Chú đã vĩnh biệt bố mẹ.
 
Top